Thứ Năm, 13/11/2025 15:54

Tạp chí Việt Mỹ

Tất cả chuyên mục

Góp ý Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Chú trọng đầu tư, nâng cao mức sống cho đồng bào các dân tộc vùng cao, vùng xa, đặc biệt khó khăn

Thứ tư, 12/11/2025 - 06:35 (GMT+7)

TCVM - Văn kiện Đại hội XIV của Đảng cần tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa quan điểm nhất quán về phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số, coi đây là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội quan trọng trong giai đoạn 2026-2035.

Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là chiến lược cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận trong công cuộc xóa đói giảm nghèo và phát triển vùng dân tộc thiểu số, thực tế vẫn cho thấy đời sống của đồng bào vùng cao, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn còn nhiều hạn chế.

Khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng vẫn còn lớn, tình trạng thiếu đất sản xuất, thiếu việc làm ổn định, cơ sở hạ tầng yếu kém, và chất lượng giáo dục - y tế còn thấp là những rào cản lớn trong tiến trình phát triển bền vững.

Vì vậy, Văn kiện Đại hội XIV của Đảng cần tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa quan điểm nhất quán về phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số, coi đây là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội quan trọng trong giai đoạn 2026-2035, hướng tới mục tiêu "không để ai bị bỏ lại phía sau" trong tiến trình phát triển đất nước.

1. Cần tăng cường đầu tư có trọng tâm, trọng điểm

Đầu tư cho vùng dân tộc thiểu số không chỉ là đầu tư về hạ tầng, mà còn là đầu tư cho con người, văn hóa, và tương lai phát triển bền vững. Văn kiện Đại hội XIV cần làm rõ chủ trương tăng tỷ lệ đầu tư ngân sách nhà nước cho các chương trình phát triển vùng khó khăn, đặc biệt là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn mới (sau năm 2025).

Nguồn lực đầu tư cần được phân bổ hợp lý, công bằng và hiệu quả, tránh dàn trải, chú trọng các công trình thiết yếu như giao thông, điện, nước, trường học, trạm y tế, công nghệ thông tin và hạ tầng số. Việc ứng dụng chuyển đổi số trong cung cấp dịch vụ công, giáo dục và y tế từ xa sẽ mở ra cơ hội tiếp cận tri thức, việc làm và chăm sóc sức khỏe cho đồng bào ở những nơi địa hình cách trở.

2. Phát triển sinh kế bền vững và giảm nghèo đa chiều

Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn phụ thuộc vào nông - lâm nghiệp truyền thống, năng suất thấp, dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu. Do đó, Đảng cần định hướng rõ chính sách hỗ trợ sinh kế gắn với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và du lịch sinh thái cộng đồng.

Các mô hình khởi nghiệp nông nghiệp bản địa, phát triển sản phẩm OCOP (mỗi xã một sản phẩm), chế biến nông sản, thảo dược, và du lịch trải nghiệm văn hóa dân tộc cần được hỗ trợ vốn, kỹ thuật và thị trường. Nhà nước nên ưu tiên cơ chế tín dụng ưu đãi xanh, đào tạo kỹ năng sản xuất, quản lý, marketing, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) vào khu vực miền nũi.

Việc thực hiện chính sách giảm nghèo đa chiều phải đi kèm với đánh giá tác động xã hội, đảm bảo không chỉ giảm nghèo về thu nhập mà còn nâng cao quyền tiếp cận dịch vụ, giáo dục, y tế, thông tin và văn hóa cho người dân.

3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số

Một trong những điểm yếu căn bản ở vùng cao là chất lượng nguồn nhân lực thấp, đặc biệt là thanh niên dân tộc ít người thiếu kỹ năng nghề, kỹ năng số và tiếng phổ thông. Do đó, Văn kiện Đại hội XIV cần đề xuất chính sách giáo dục đặc thù và linh hoạt, bao gồm:

• Tăng cường đầu tư trường nội trú, bán trú dân tộc;

• Mở rộng chương trình đào tạo nghề gắn với nhu cầu thị trường;

• Phát triển đào tạo trực tuyến, học nghề qua mạng;

• Có cơ chế cử tuyển - học bổng - hỗ trợ việc làm sau tốt nghiệp cho học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số.

Song song, cần quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, coi đây là lực lượng nòng cốt trong công tác vận động quần chúng và quản lý phát triển tại địa phương.

Đảng và Nhà nước luôn coi trọng phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn

4. Bảo tồn văn hóa, gắn phát triển kinh tế với bản sắc dân tộc

Phát triển vùng dân tộc không chỉ là nâng cao đời sống vật chất, mà còn là bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tạo nền tảng tinh thần vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Văn kiện Đại hội XIV cần khẳng định rõ định hướng phát triển bền vững gắn với gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc - coi văn hóa là "sức mạnh nội sinh" và "động lực phát triển".

Cần có chính sách bảo tồn làng nghề, tiếng nói, chữ viết, lễ hội và di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc, kết hợp với khai thác du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng một cách bền vững, không thương mại hóa cực đoan. Đồng thời, phải chú trọng tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ vùng cao hiểu, tự hào và có ý thức giữ gìn văn hóa của dân tộc mình.

5. Bảo đảm công bằng xã hội và cơ hội phát triển

Khoảng cách giàu nghèo giữa miền núi và đồng bằng, giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số vẫn là vấn đề đáng quan tâm. Vì vậy, Đảng cần tiếp tục cụ thể hóa các chính sách an sinh xã hội, y tế, giáo dục, nhà ở, đất đai, bảo hiểm phù hợp với điều kiện vùng cao.

Cần đảm bảo mọi người dân, dù ở vùng xa nhất, vẫn được tiếp cận dịch vụ công cơ bản, được tham gia và hưởng lợi công bằng trong các chương trình phát triển. Đồng thời, tăng cường giám sát, phòng chống tiêu cực, lợi ích nhóm trong thực hiện chính sách dân tộc để nguồn lực thực sự đến được với người dân.

6. Phát huy vai trò của đồng bào dân tộc trong phát triển

Đầu tư cho vùng dân tộc phải xuất phát từ nguyên tắc "trao quyền - tạo cơ hội - hỗ trợ tự vươn lên", không nên thiên về bao cấp thụ động. Đồng bào cần được tham gia từ khâu lập kế hoạch, triển khai đến giám sát các dự án phát triển, góp phần nâng cao năng lực tự quản, tự chủ và tự chịu trách nhiệm.

Cần khuyến khích các mô hình hợp tác xã, doanh nghiệp cộng đồng, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên rừng, nguồn nước và môi trường sinh thái. Việc huy động trí tuệ và nội lực của đồng bào sẽ giúp quá trình phát triển mang tính bền vững, tránh lệ thuộc và tạo ra sự đồng thuận xã hội cao.

Góp ý cho Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, vấn đề nâng cao mức sống cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn không chỉ là yêu cầu kinh tế - xã hội, mà còn là nhiệm vụ chính trị, nhân văn và chiến lược. Một Việt Nam phát triển bền vững phải là một Việt Nam công bằng, đoàn kết, đa dạng và bao trùm, nơi mọi dân tộc đều có cơ hội phát triển bình đẳng, giữ gìn bản sắc và đóng góp vào sự nghiệp chung của đất nước.

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công". Sự phát triển của vùng dân tộc thiểu số chính là minh chứng sinh động cho tinh thần đoàn kết toàn dân tộc và bản lĩnh phát triển của Việt Nam trong thời kỳ mới.

Tiến sĩ Nguyễn Thắng Cảnh

tin mới cập nhật