Góp ý văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Đề cao giải pháp xây dựng hệ thống đê kè, chống sụt lún, sạt lở đất để đạt hiệu quả, an toàn
Thứ năm, 06/11/2025 - 06:51 (GMT+7)
TCVM - Văn kiện Đại hội XIV của Đảng cần nhấn mạnh và cụ thể hóa nội dung này như một trong những trụ cột của chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ đất đai và cư dân vùng rủi ro thiên tai.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng do biến đổi khí hậu và tác động của phát triển kinh tế - xã hội đến môi trường tự nhiên.
Hiện tượng sạt lở đất, sụt lún và xói mòn bờ sông, bờ biển xảy ra với tần suất ngày càng cao, gây thiệt hại lớn về người, tài sản và cơ sở hạ tầng, đe dọa nghiêm trọng đến sinh kế của hàng triệu người dân, đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và miền núi phía Bắc.
Trước tình hình đó, việc xây dựng, củng cố và hiện đại hóa hệ thống đê kè, công trình chống sạt lở, sụt lún trở thành yêu cầu cấp bách, không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật mà còn là chiến lược đảm bảo an ninh môi trường, phát triển bền vững và an sinh xã hội.
Văn kiện Đại hội XIV của Đảng cần nhấn mạnh và cụ thể hóa nội dung này như một trong những trụ cột của chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ đất đai và cư dân vùng rủi ro thiên tai.
Thực trạng và những vấn đề đặt ra
Hiện nay, hệ thống đê điều và kè chống sạt lở của nước ta đã được đầu tư nhưng vẫn còn nhiêu bất cập:
• Về quy hoạch: Nhiều công trình xây dựng rời rạc, thiếu đồng bộ, không gắn với quy hoạch tổng thể phát triển đô thị và hạ tầng nông thôn.
• Về kỹ thuật: Phần lớn đê kè ở vùng đồng bằng và ven biển được xây dựng từ nhiều thập niên trước, chưa được nâng cấp theo tiêu chuẩn hiện đại, vật liệu xuống cấp, khả năng chịu lực kém.
• Về quản lý: Còn tình trạng buông lỏng trong giám sát thi công, thiếu bảo dưỡng định kỳ, dẫn tới hư hỏng, nứt gãy, gây nguy cơ vỡ đê, sạt lở.
• Về nguồn lực: Nguồn vốn cho xây dựng và duy tu công trình còn hạn chế, chủ yếu phụ thuộc ngân sách nhà nước; trong khi đó, việc huy động xã hội hóa và ứng dụng khoa học – công nghệ còn yếu.
Đặc biệt, đồng bằng sông Cửu Long đang lún sụt trung bình 1-2 cm/năm do khai thác nước ngầm quá mức, sạt lở bờ sông, bờ biển lan rộng; miền Trung thường xuyên hứng chịu mưa bão, lũ quét; miền núi phía Bắc có địa hình dốc, thảm thực vật bị suy giảm, dẫn đến nguy cơ sạt lở đất cao. Những thách thức này đòi hỏi một hệ thống giải pháp tổng thể, liên ngành, có tính dài hạn và bền vững.

Văn kiện Đại hội XIV cần đặc biệt lưu tâm đến việc trị thuỷ, gia cố đê điều, chống ngập, úng
Định hướng chiến lược trong văn kiện Đại hội XIV
Để bảo đảm hiệu quả và an toàn trong xây dựng hệ thống đê kè, chống sạt lở, sụt lún, Văn kiện Đại hội XIV cần nhấn mạnh các định hướng lớn sau:
a) Xây dựng chiến lược quốc gia vê đê điều và kiểm soát sạt lở đất
Đề nghị Đảng và Nhà nước xây dựng Chiến lược Quốc gia về phòng chống sụt lún, sạt lở đất và quản lý tổng hợp đê kè giai đoạn 2026-2045, với mục tiêu:
• Bảo đảm an toàn cho dân cư, hạ tầng giao thông, nông nghiệp và công nghiệp ven sông, ven biển.
• Kết hợp phòng chống thiên tai với phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
• Xây dựng hệ thống đê kè hiện đại, ứng dụng công nghệ số và vật liệu thân thiện môi trường.
b) Hiện đại hóa và số hóa quản lý công trình đê điều
Ứng dụng công nghệ cảm biến, bản đồ số, mô hình thủy lực - địa chất để giám sát sụt lún và cảnh báo sạt lở theo thời gian thực. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần phối hợp xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về nguy cơ sạt lở, hỗ trợ chính quyền địa phương trong quy hoạch xây dựng và phòng tránh thiên tai.
c) Tăng cường đầu tư và xã hội hóa nguồn lực
Bên cạnh ngân sách trung ương, cân huy động nguồn vốn ODA, quỹ khí hậu, trái phiếu xanh và hợp tác công tư (PPP) cho các dự án xây dựng và nâng cấp đê điều. Các doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và cộng đồng dân cư cần được khuyến khích tham gia bảo vệ công trình thông qua cơ chế chia sẻ lợi ích, ưu đãi thuế hoặc tín chỉ carbon.
d) Ứng dụng khoa học - công nghệ và kinh nghiệm quốc tế
Học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia có nền kỹ thuật tiên tiến như Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc trong xây dựng đê mềm, đê sinh thái, đê thông minh - kết hợp giữa công trình cứng và giải pháp tự nhiên (Nature-based Solutions). Khuyến khích nghiên cứu vật liệu mới, như bê tông sinh học, cọc composite, kết cấu giảm áp lực nền, nhằm tăng độ bền và giảm chi phí bảo trì.
e) Bảo tồn hệ sinh thái và phục hồi rừng ven sông, ven biến
Giải pháp công trình cần đi đôi với giải pháp sinh thái, đặc biệt là trồng rừng ngập mặn, rừng đầu nguồn, thảm cỏ chống xói mòn.
Đây là "hàng rào xanh" tự nhiên giúp giảm thiểu sạt lở, ổn định đất, bảo vệ hệ sinh thái và đa dạng sinh học. Văn kiện cần khẳng định rõ nguyên tắc "phòng ngừa tự nhiên là ưu tiên hàng đầu".
Giải pháp cụ thể đề xuất trong văn kiện
1. Hoàn thiện thể chế và cơ chế phối hợp liên ngành:
Ban hành Luật Phòng chống sạt lở và sụt lmn đất, thin l ,Y bN GUcgi điều phối công tác phòng chống sạt lở, có chức năng liên kết giữa trung ương - địa phương - khoa học - doanh nghiệp.
2. Quy hoạch tổng thể vùng rủi ro cao:
Cập nhật bản đồ sạt lở toàn quốc, xác định vùng cấm, vùng hạn chế xây dựng;
di dời dân cư khỏi khu vực nguy hiểm;
kết hợp quy hoạch giao thông, nông nghiệp, thủy lợi với quy hoạch ứng phó biến đổi khí hậu.
3. Đầu tư trọng điểm và ưu tiên vùng xung yếu:
Tập trung nguồn vốn nhà nước vào các "điểm nóng" như Đồng bằng sông Cửu
Long, bờ biển miền Trung, khu vực Tây Bắc. Triển khai các dự án thí điểm về đê kè đa mục tiêu, vừa chống sạt lở, vừa phục vụ giao thông, du lịch và phát triển sinh thái.
4. Đào tạo nhân lực và nâng cao nhận thức cộng đồng:
Tăng cường chương trình giáo dục cộng đồng về phòng chống sạt lở; đào tạo kỹ sư, chuyên gia địa kỹ thuật, quản lý rủi ro thiên tai. Khuyến khích người dân tham gia giám sát, bảo vệ và duy tu công trình.
5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và đánh giá:
Xây dựng cơ chế giám sát độc lập, công khai thông tin dự án, phòng ngừa thất thoát và tiêu cực. Đưa tiêu chí an toàn đê điều, sạt lở vào đánh giá năng lực của chính quyền địa phương.
Gắn kết với mục tiêu phát triển bền vững
Xây dựng hệ thống đê kè, chống sụt lún và sạt lở đất không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật mà còn là một chính sách phát triển bền vững mang tầm chiến lược quốc gia.
Văn kiện Đại hội XIV của Đảng cần khẳng định đây là ưu tiên lớn trong bảo đảm an ninh sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ đời sống nhân dân và phát triển đất nước bền vững.
Một hệ thống đê kè hiện đại, an toàn, thân thiện môi trường sẽ là "lá chắn" bảo vệ đất nước trước thiên tai, đồng thời tạo nền tảng cho phát triển nông nghiệp, đô thị và hạ tầng xanh.
Đề cao tầm nhìn dài hạn, kết hợp giữa công nghệ, quản trị và cộng đồng - đó là con đường để Việt Nam vững bước hướng tới tương lai an toàn, xanh và thịnh vượng.
Tiến sĩ Nguyễn Thắng Cảnh