Cội nguồn và những tiếp xúc đầu tiên cho lịch sử hơn 200 năm ngoại giao giữa hai dân tộc Việt Nam - Hoa Kỳ
Chủ nhật, 12/10/2025 - 07:09 (GMT+7)
TCVM - Nhân kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (1995-2025), chúng ta cùng nhìn lại chặng đường lịch sử đầy ý nghĩa, đặc biệt là những tiếp xúc ban đầu, vốn ít được biết đến, đã đặt nền móng cho mối quan hệ ngày nay
Trong khi tất cả chúng ta đều quen thuộc với cột mốc năm 1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam, thì cội nguồn của sự tương tác giữa hai quốc gia đã bắt đầu sớm hơn nhiều, với sự quan tâm đặc biệt từ một trong những vị Tổng thống lập quốc vĩ đại nhất của Hoa Kỳ: Thomas Jefferson với một nhân vật lịch sử ít được biết đến: Hoàng tử Cảnh, con trai cả vua Gia Long tại Paris cuối thế kỷ 18.
Nhân kỷ niệm 30 năm bình thường hóa quan hệ hai nước, tôi muốn giới thiệu những tìm tòi, nghiên cứu và bằng chứng về mối quan hệ tuyệt vời này qua những ghi chép của Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson, cũng là tác giả Tuyên ngôn Độc lập Mỹ mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lại trong Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam ngày 2/9/1945.

Giống lúa của "Một đất nước xa xôi", giống lúa có thể trồng trên vùng cao không cần ruộng ngập nước (Ảnh minh họa, Internet)
Thomas Jefferson và mối quan tâm đến giống lúa của "Một đất nước xa xôi"
Vài người đã biết đến câu chuyện về Thomas Jeffersonvới tư cách Tổng thống thứ ba của nước Mỹ (1801-1809), đã cử thương thuyền Frame - con tàu đầu tiên của Mỹ cập cảng Đà Nẵng tháng 5/1803, mở đầu cho hàng loạt chuyến đi kế tiếp của các thương thuyền khác đến Việt Nam, với mục tiêu tìm kiếm thị trường cho nông sản và hàng hóa Mỹ. Nhưng cội nguồn của mối quan tâm đó là gì hẳn là chưa được nhắn đến.
Vào cuối thế kỷ 18, khi Hoa Kỳ đang ở giai đoạn trứng nước, Thomas Jefferson được bổ nhiệm là Công sứ Đặc mệnh toàn quyền (Minister Plenipotentiary) tại Pháp, và ông sống ở Paris từ tháng 8 năm 1784 đến tháng 9 năm 1789, tổng cộng 5 năm. Thomas Jefferson là một người có tầm nhìn xa trông rộng và đam mê tri thức, đã thể hiện sự quan tâm đến một vùng đất xa xôi ở châu Á: Cochinchina (xứ Đông Dương). Sự quan tâm này không phải là ngẫu nhiên mà bắt nguồn từ mong muốn tìm kiếm những giống cây trồng mới có thể mang lại lợi ích cho nền nông nghiệp non trẻ của Hoa Kỳ.
Mùa hè năm 1787, Thomas Jefferson đọc được cuốn “Voyages d’un Philosophe” của Poivre và bị thu hút bởi mô tả về giống lúa trồng ở xứ Cochinchine (xứ Đôgn Dương nhưng cụ thể là Việt Nam). Trong thư gửi William Drayton ngày 30/7/1787, Jefferson trích dẫn chi tiết từ ghi chép của Poivre: “Ông Poivre, nhận xét rằng ở Cochinchina người dân ở đó trồng tới 6 loại lúa khác nhau… ba loại cần nước và ba loại trên đất cao”. Chắc là Pierre Poivre nói đến gióng lúa nước ở đồng bằng sông Cửu Long và giống lúa trên cạn nông dân Bắc Bộ hay trồng. Poivre (1719- 1786) là một nhà thực vật học, nhà nông học, nhà làm vườn, nhà thám hiểm người Pháp. Ông đã đến Đàng Trong (Việt Nam) trong các năm 1749-1750 với tư cách là đại diện của Công ty Ấn Độ thuộc Pháp để đàm phán các đặc quyền thương mại. Các ghi chép về chuyến đi của ông ở Đông Dương được tập hợp và xuất bản thành tác phẩm "Les voyages d'un philosophe" (Những chuyến du hành của một nhà hiền triết) và nhờ ghi chép này mà Thomas Jefferson biết kỹ thêm về An Nam và Đông Dương và các giống lúa..
Jefferson lưu ý ghi chép của Poivre viết về giống lúa ở Madagascar (cùng loại với lúa Carolina ở Mỹ) là loại lúa trắng, còn “lúa khô của Cochinchina nổi tiếng là hạt trắng nhất, ngon nhất và năng suất nhất”. Qua Poivre, Jefferson nhận ra giống lúa châu Á này có thể “kết hợp ưu điểm của các giống lúa hiện có” ở Mỹ và quan trọng hơn, có thể trồng trên vùng cao không cần ruộng ngập nước, từ đó tránh được “những đầm nước tù đọng gây hại chết người” ở các đồn điền lúa miền Nam Hoa Kỳ.
Cũng thật tình cờ khi giai đoạn đó, Hoàng tử Cảnh, con trưởng của Vua Gia Long cũng ở Pháp. Hoàng tử Cảnh sinh năm 1780 (và mất vào ngày 20 tháng 3 năm 1801), được Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine).đưa sang Paris trong giai đoạn từ năm 1784 đến năm 1789.
Mặc dù mục đích của chuyến đi là để cầu viện Pháp giúp đỡ Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn, nhưng trong thời gian ở Pháp, Hoàng tử Cảnh đã được vua Louis XVI tiếp đãi theo nghi thức vương giả. Giám mục Bá Đa Lộc và Bá tước De Montmorin (Thượng thư Bộ Ngoại giao Pháp) đã ký kết Hiệp ước Versailles vào ngày 28 tháng 11 năm 1787, trong đó Pháp cam kết giúp Nguyễn Ánh 4 tàu chiến và một đạo quân. Và dường như Hoàng tử Cảnh cùng đoàn tùy tùng, với sự bảo trợ của Ba Đa Lộc đã có những hoạt động nhiều hơn thế ở Paris.
Khi nghiên cứu về các văn bản, ghi chép của Thomas Jefferson (tài liệu lưu trữ ở thư viện Quốc hội Mỹ), tôi thấy rất tuyệt vời khi đọc 3 bức thư ông viết về cội nguồn ý tưởng nhập giống lúa Đông Dương sang Mỹ. Những bức thư ông gửi đi thể hiện sự nỗ lực không ngừng để tìm kiếm và đưa về Mỹ giống lúa tốt từ Cochinchina. Chính những tiếp xúc đầu tiên với Hoàng tử Cảnh ở Paris dẫn ông đến ý tưởng đưa một con thuyền sang Việt Nam sau đó.
Trong bức thư viết ngày 30/7/1787 từ Paris gửi William Drayton, chủ tịch hội cải tiến nông nghiệp ở South Carolina, sau này còn là Chủ tịch Ngân hàng Mỹ, Jefferson viết về lúa Cochinchina theo mô tả của Pierre Poivre: "The dry rice of Cochinchina has the reputation of being whitest to the eye, best flavored to the taste, and most productive. It seems then to unite the good qualities of both the others known to us. Could it supplant them, it would be a great happiness, as it would enable us to get rid of those ponds of stagnant water so fatal to human health and life."
(Tạm dịch: "Gạo khô Cochinchina có tiếng là trắng nhất, ngon nhất và năng suất nhất. Dường như loại lúa này hội tụ những phẩm chất tốt của cả hai loại khác mà chúng ta biết. Nếu loại lúa này được trồng, đó sẽ là một niềm hạnh phúc lớn, vì nó sẽ giúp chúng ta loại bỏ những ao nước tù đọng gây chết người và ảnh hưởng đến sức khỏe của con người.")
Trong bức thư này, Jefferson đề cập đến những quan sát của Monsieur Poivre, về nông nghiệp ở châu Á và Đông Dương khi Poivre đã ghi nhận rằng ở Cochinchina (Nam Kỳ), người ta trồng sáu loại lúa khác nhau, trong đó có ba loại cần nước và ba loại có thể trồng trên đất cao. Jefferson đặc biệt nhấn mạnh rằng "lúa khô của Cochinchina nổi tiếng là trắng nhất, ngon nhất và năng suất cao nhất." (Xem bức thư đầy đủ tôi dịch kèm theo). Như vậy, vào giữa năm 1787, Thomas Jefferson đọc được cuốn sách của Poivre và biết đến giống lua/gạo Đông Dương.
Và tiếp theo, trong thư gửi William Drayton ngày 13/1/1788, Jefferson tiếp tục bày tỏ hy vọng về việc nhận được giống lúa này: "I have considerable hopes of receiving some dry rice from Cochin-china, the young Prince of that country, lately gone from hence, having undertaken that it shall come to me. But it will be some time first." (Tạm dịch: "Tôi có nhiều hy vọng sẽ nhận được một ít gạo khô từ Cochinchina, vị Hoàng tử trẻ của đất nước đó, vừa mới rời khỏi đây, đã cam kết rằng nó sẽ đến tay tôi. Nhưng sẽ mất một thời gian nữa.")
Trong bức thư này, Thomas Jefferson nói rõ việc đã gặp, tiếp xúc với Hoàng tử Cảnh ở Paris. Có thể Hoàng tử Cảnh khi đó còn quá nhỏ, mới khoảng 8-9 tuổi nhưng đi cùng hẳn là một số vị quan phù tá của Nguyễn Ánh cử đi cùng và Thomas Jefferson chắc đã trò chuyện với nhóm này. Ông viết, ‘Hoàng tử Cảnh vừa mới rời đây’, có thể hiểu là vừa mới rời ngôi nhà/nơi gặp mặt Thomas Jefferson, và hẳn là hứa sẽ gửi giống lúa cho Tho má Jefferson.
Tiếp nữa, trong thư gửi Malesherbes (11/3/1789), trong thư này, Jefferson nhấn mạnh tầm quan trọng của loại lúa "mọc trên đất cao, chỉ cần nước mưa" từ Cochinchina và một lần nữa dẫn chứng Pierre Poivre: "I have been told that there is a species of rice which grows in Cochin-china on high lands, and which needs no other watering than the ordinary rains. The sun and soil of Carolina are sufficiently powerful to ensure the success of this plant, and Monsieur de Poivre gives me reason to believe that it unites the good qualities of both the others known to us, and that it would save the lives of thousands, and health of tens of thousands annually in South Carolina."
(Tạm dịch: "Tôi được biết có một loại lúa mọc ở Cochinchina trên đất cao, chỉ cần nước mưa thông thường. Nắng và đất ở Carolina đủ tốt để đảm bảo sự thành công của loại cây này, và Monsieur de Poivre cho tôi lý do để tin rằng nó kết hợp được những phẩm chất tốt của cả hai loại khác mà chúng ta biết, và rằng nó sẽ cứu sống hàng ngàn người, và sức khỏe của hàng chục ngàn người hàng năm ở Nam Carolina.")
Malesherbes, tên đầy đủ là Chrétien Guillaume de Lamoignon de Malesherbes (1721-1794), là một nhân vật quan trọng trong lịch sử Pháp thế kỷ 18. Ông là Quốc vụ khanh Hoàng gia (Secretary of State of the Maison du Roi) dưới thời vua Louis XVI (1775-1776) nhà cải cách, và nhà tư tưởng trong thời kỳ Khai sáng, nổi tiếng với sự liêm chính và tư tưởng tiến bộ có nhiều đóng góp khi là Giám đốc Thư viện (Directeur de la Librairie) Pháp. Như trong bức thư này, tôi đoán rằng, sau hơn 1 năm khi chia tay Hoàng tử Cảnh, Thomas Jefferson vẫn chưa nhận được giống lúa Đông Dương như đã hứa, nên có lẽ ông sốt ruột muốn nhờ đến Malesherbes, Quốc vụ khanh của Pháp, giúp đỡ ông có loại giống lúa này.
Những bức thư đó cho thấy sự quan tâm sâu sắc của Jefferson đến nông nghiệp và cho chúng ta biết những tiếp xúc đầu tiên giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, giữa ông và Hoàng tử Cảnh. Mặc dù sự quan tâm của Jefferson khi đó mới ở lĩnh vực nông nghiệp, nhưng nó phản ánh một tinh thần khám phá và mong muốn kết nối với thế giới của một quốc gia non trẻ. Sau này, vào những năm đầu thế kỷ 19, khi lên làm Tổng thống Mỹ, Thomas Jefferson nhớ lại những gì ông biết và nỗ lực tìm cách nhập khẩu giống lúa Việt Nam về Mỹ nên đã có những nỗ lực cụ thể hơn trong việc thiết lập giao thương bằng việc cử đi chiếc tàu Frame sang Việt Nam.
Sau này vào năm 1819, dưới thời Tổng thống James Monroe, có lẽ tiếp nối những gì Thomas Jefferson đã làm, chính phủ Hoa Kỳ đã cử tàu USS Franklin đến Cochinchina với mục đích tìm kiếm cơ hội giao thương. Tuy nhiên, chuyến đi này đã không thành công như mong đợi do những khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và chính sách thương mại vào thời điểm đó.
Ý nghĩa lịch sử và tầm nhìn cho tương lai
Những tiếp xúc ban đầu đó, dù chưa mang lại kết quả ngay lập tức, đã gieo những hạt mầm đầu tiên cho mối quan hệ Việt - Mỹ. Những ghi chép và ý tưởng của Thma Jefferson cho thấy sự tò mò, khám phá và mong muốn kết nối từ cả hai phía, dù là ở những hình thái sơ khai nhất. Từ những bức thư của Thomas Jefferson về giống lúa quý giá từ Cochinchina cho đến nỗ lực giao thương đầu thế kỷ 19, lịch sử đã ghi lại những bằng chứng về sự tương tác sớm giữa hai quốc gia.
Nhân dịp 80 năm thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức và 30 năm bình thường hóa, việc nhìn lại những cội nguồn sâu xa này không chỉ làm phong phú thêm câu chuyện lịch sử giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mà còn khẳng định rằng mối quan hệ này được xây dựng trên một nền tảng dài lâu, vượt ra ngoài những cột mốc chính thức. Nó là minh chứng cho tinh thần kết nối và hợp tác giữa hai dân tộc, định hình nên mối quan hệ đối tác toàn diện mạnh mẽ và bền vững như ngày nay. Những "bằng chứng" từ di sản của Thomas Jefferson là một đóng góp quý giá, thêm vào bức tranh toàn cảnh về mối quan hệ Việt - Mỹ, một mối quan hệ với lịch sử phong phú và tiềm năng vô hạn trong tương lai.
1. Bức thư Thomas Jefferson gửi William Drayton từ Paris ngày 30 tháng 7 năm 1787: bản gốc https://founders.archives.gov/documents/Jefferson/01-11-02-0568
2. Thư của Thomas Jefferson gửi William Drayton, ngày 13 tháng 1 năm 1788, https://founders.archives.gov/documents/Jefferson/01-12-02-0531
3. Thư của Thomas Jefferson gửi Malesherbes, 11 tháng 3 năm 1789: https://founders.archives.gov/documents/Jefferson/01-14-02-0386
Từ Thomas Jefferson gửi William Drayton, ngày 30 tháng 7 năm 1787
Kính gửi Ngày William Drayton
Paris, ngày 30 tháng 7 năm 1787
Kính thưa Ngài,
Sau khi nhận thấy lượng tiêu thụ gạo ở đất nước này (Pháp – NCB), đặc biệt là ở Thủ đô Paris, rất lớn, tôi cho rằng mình có nghĩa vụ phải tìm hiểu xem họ lấy nguồn cung từ những thị trường nào, tỷ lệ từ thị trường của chúng ta là bao nhiêu, và liệu có thể tăng tỷ lệ đó lên không. Thành phố này ít liên quan đến thương mại nước ngoài nên rất khó để có được thông tin chi tiết về từng ngành cụ thể. Tôi đã tìm đến những người bán lẻ gạo, và từ họ, tôi nhận được một hỗn hợp cả sự thật và sai sót mà tôi không thể sàng lọc ngay lập tức.
Tuy nhiên, sau khi tiếp tục tìm hiểu, cuối cùng tôi đã có được kết quả này: các nhà buôn ở đây thường bán hai loại gạo, gạo Carolina, mà họ chủ yếu nhập từ Anh, và gạo Piedmont; rằng gạo Carolina dài, mảnh, trắng và trong suốt, rất hợp khi chế biến với sữa, đường, v.v., nhưng không ngon bằng khi chế biến "au gras" (với chất béo); còn gạo Piedmont thì ngắn hơn, dày hơn và ít trắng hơn, nhưng nó giữ được hình dạng tốt hơn khi chế biến "au gras", ngon hơn và do đó được những người sành ăn ưa chuộng cho các mục đích đó; rằng lượng tiêu thụ gạo theo hình thức này là lớn hơn nhiều, nhưng vẻ đẹp vượt trội của gạo Carolina, thu hút mắt những người mua sắm chú trọng hình thức, khiến nhu cầu về loại gạo này nhìn chung vẫn lớn bằng gạo Piedmont.
Họ cho rằng sự khác biệt về chất lượng này xuất phát từ sự khác biệt trong cách quản lý; rằng gạo Carolina được xay xát bằng một dụng cụ làm vỡ nhiều hơn, và người ta ít chú ý đến việc tách hạt vỡ ra khỏi hạt nguyên, họ cho rằng chính những hạt vỡ là những hạt bị tan trong các món ăn nhiều dầu mỡ; rằng gạo Carolina có giá thấp hơn một chút so với gạo Piedmont; nhưng vì họ phải phân loại hạt nguyên ra khỏi hạt vỡ để làm hài lòng khách hàng, họ bán và nhận được giá ngang bằng cho loại gạo Carolina chất lượng nhất khi đã được phân loại, như đối với gạo Piedmont; nhưng loại 2 và 3 thu được sau khi phân loại thì được bán rẻ hơn nhiều.
Việc gạo Carolina bị vỡ do chế biến, và điều này được cho là do máy xay xát kém hoàn hảo hơn, đã khiến tôi hy vọng mình có thể tìm hiểu được máy xay xát của Piedmont là loại nào khi tôi đến Marseille, nơi tôi sẽ đến trong chuyến đi thăm các thị trấn cảng của Pháp. Tuy nhiên, ở Marseille, họ lại có những mô tả khác nhau về loại máy này, cũng như ở Paris, họ đã có những ý kiến khác nhau về những hoàn cảnh khác. Một số người nói rằng nó được xay xát giữa các cối xay, những người khác nói là giữa các miếng chà bằng gỗ hình cối xay, những người khác thì nói bằng nút chai. Tuy nhiên, họ đều nhất trí về một điều: loại máy này có thể được nhìn thấy ngay khi qua dãy Alps. Việc này sẽ mất ba tuần.
Tôi đã vượt qua dãy Alps và đi qua vùng trồng lúa từ Vercelli đến Pavia, khoảng 60 dặm. Tôi thấy loại máy này hoàn toàn giống với loại được sử dụng ở Carolina, theo trí nhớ của tôi về mô tả mà ông E. Rutledge đã cung cấp. Nó hoạt động theo nguyên tắc của một cối xay thuốc súng. Trong một số máy, họ có gắn một răng bằng sắt vào mỗi chày, bao gồm 9 gai được quấn lại với nhau, điều mà tôi không nhớ trong mô tả của ông Rutledge. Do đó, tôi đã làm một cái răng và vinh dự gửi kèm theo lá thư này; đồng thời lưu ý rằng nhiều máy của họ không có răng cũng như có răng, và tất nhiên là lợi thế không rõ ràng lắm.
Có vẻ như gạo Lombardy (mặc dù được gọi là gạo Piedmont, nhưng nó không trồng ở vùng đó mà ở Lombardy) là một loại khác với gạo Carolina, khác về hình dạng, màu sắc và chất lượng. Chúng ta biết rằng ở châu Á, họ có một số loài ngũ cốc khác nhau này. Ông Poivre, một nông dân tổng quản của Isle de France, khi đi qua một số quốc gia châu Á, đã đặc biệt chú ý đến các đối tượng nông nghiệp của họ, và ông nói với chúng ta rằng ở Cochinchina (Đàng Trong) họ trồng 6 loại gạo khác nhau, mà ông mô tả, ba loại cần nước và ba loại trồng trên đất cao. Gạo Carolina được cho là đến từ Madagascar, và DePoivre nói với chúng ta rằng đó là loại gạo trắng được trồng ở đó. Điều này củng cố khả năng nó có nguồn gốc khác biệt so với gạo Piedmont, và thời gian, canh tác và khí hậu có thể đã khiến nó khác biệt hơn nữa. Với ý nghĩ này, tôi cho rằng sẽ tốt nếu cung cấp cho ngài một ít gạo Piedmont chưa xay xát, nhưng được cho biết rằng việc xuất khẩu loại gạo đó dưới dạng đó là trái với luật pháp. Tuy nhiên, tôi đã thực hiện các biện pháp có thể để có được một lượng gạo mang ra ngoài, và để tránh trường hợp thất bại, tôi đã tự mình mang theo vài pound. Một phần trong số này tôi đã gửi cho ngài qua đường London; một phần đi kèm với lá thư này; và tôi sẽ gửi một gói khác bằng một hình thức vận chuyển khác để tránh nguy cơ thất lạc. Bất kỳ gói nào đến nơi an toàn cũng có thể dùng làm hạt giống, nếu hội cho rằng đó là một mục tiêu đáng giá. Hạt giống này cũng đến từ Vercelli, nơi được cho là trồng loại gạo ngon nhất, nên đáng tin cậy hơn những gì có thể gửi cho tôi sau này.
Có một loại gạo từ Levant được coi là có chất lượng khác biệt, và một số người cho rằng nó vượt trội so với gạo Piedmont. Những rắc rối đã tồn tại ở đất nước đó trong vài năm qua đã ngăn cản nó đến thị trường châu Âu, do đó nó gần như không còn được biết đến. Tuy nhiên, tôi đã mua được một túi gạo loại này ở Marseille, và một túi gạo Lombardy loại tốt nhất, chúng đang trên đường đến đây, và khi đến nơi, tôi sẽ gửi cho ngài một lượng đủ để ngài có thể đánh giá chất lượng của chúng khi đã được chế biến. Tôi cũng đã thực hiện các biện pháp để có được một lượng gạo này từ Levant, chưa xay xát. Nếu thành công, tôi sẽ gửi đi tương tự. Tôi nghĩ rằng việc trồng hai loại gạo được thị trường yêu cầu ở Carolina và Georgia chắc chắn sẽ có lợi; bởi vì sự phát triển của ngành canh tác ở chúng ta có thể sớm vượt quá nhu cầu về gạo trắng; và bởi vì thường có nhu cầu mạnh mẽ đối với một loại gạo, khi thị trường bị bão hòa với loại kia. Tôi hy vọng sẽ không có nguy cơ làm mất loại gạo trắng do nhầm lẫn với loại kia. Đây sẽ là một tai họa thực sự, vì tôi sẽ không ngần ngại tuyên bố rằng gạo trắng, xét về tổng thể, là loại quý giá nhất đối với chúng ta.
Gạo khô Cochinchina (Đàng Trong) được cho là trắng nhất về mặt thị giác, ngon nhất về mặt vị giác và cho năng suất cao nhất. Do đó, nó dường như hội tụ những phẩm chất tốt của cả hai loại gạo khác mà chúng ta biết đến. Nếu nó có thể thay thế chúng, đó sẽ là một niềm hạnh phúc lớn, vì nó sẽ giúp chúng ta loại bỏ những ao nước đọng gây hại cho sức khỏe và cuộc sống con người. Nhưng thói quen và sự thất thường của khẩu vị mạnh đến nỗi chúng ta không thể chắc chắn trước được rằng nó sẽ tạo ra hiệu ứng này. Tuy nhiên, thí nghiệm này đáng để thử, ngay cả khi nó chỉ dừng lại ở việc tạo ra một loại gạo thứ ba và tăng nhu cầu. Tôi sẽ cố gắng kiếm một ít để mang từ Cochinchina về. Tuy nhiên, kết quả sẽ không chắc chắn và còn xa.
Trong chuyến hành trình của mình qua miền Nam nước Pháp, tôi đã đặc biệt chú ý đến các đối tượng canh tác của họ, bởi vì sự tương đồng về khí hậu của họ với các vùng phía Nam Hoa Kỳ, cho phép chúng ta suy đoán rằng chúng ta có thể áp dụng bất kỳ loại cây trồng nào của họ mà chúng ta mong muốn. Chúng ta sẽ không mong muốn rượu vang của họ, mặc dù chúng tốt và dồi dào. Việc trồng nho không đáng mong muốn ở những vùng đất có thể sản xuất bất cứ thứ gì khác. Đó là một loại rủi ro, trong đó, dù bạn làm ra nhiều hay không, bạn đều bị phá sản. Chỉ có vụ mùa trung bình mới là điểm cứu vãn, và điều đó thì các mùa hiếm khi đạt được.
Do đó, chúng ta thấy rất nhiều sự khốn khổ trong số những người nông dân này. Rượu vang ở những nước này cũng rất rẻ đến nỗi một người lao động của chúng ta, làm việc trong việc canh tác bất kỳ mặt hàng nào khác, có thể đổi lấy rượu, nhiều hơn và tốt hơn so với những gì anh ta tự sản xuất được. Đó là một nguồn tài nguyên cho một đất nước, nơi toàn bộ đất đai tốt đã được sử dụng cho mục đích khác, và vẫn còn một số điểm cằn cỗi và dân số dư thừa để sử dụng vào đó. Ở đó, cây nho tốt, bởi vì nó là một cái gì đó thay thế cho không có gì. Nó có thể trở thành một nguồn tài nguyên cho chúng ta vào một thời điểm sớm hơn: khi dân số tăng lên sẽ làm tăng sản lượng của chúng ta vượt quá nhu cầu trong và ngoài nước. Thay vì tiếp tục tạo ra một lượng dư thừa vô ích, chúng ta có thể sử dụng những người thừa của mình để trồng nho. Nhưng thời điểm đó vẫn chưa đến.
Cây hạnh nhân cũng bấp bênh đến nỗi không ai có thể dựa vào sản phẩm của nó để kiếm sống, ngoại trừ những người có vốn. Cây hoa câper, mặc dù là một loại cây mềm yếu hơn, lại cho năng suất chắc chắn hơn, vì một đống đất, có kích thước bằng một ụ dưa chuột, được đắp lên cây vào mùa thu, bảo vệ nó hiệu quả khỏi cái lạnh của mùa đông. Khi nguy hiểm của sương giá qua đi vào mùa xuân, họ bóc bỏ lớp đất phủ và bắt đầu trồng trọt. Có rất nhiều loại cây này ở vùng lân cận Toulon. Cây được trồng cách nhau khoảng 8 feet, và mỗi cây cho năng suất trung bình 2 pound quả câper mỗi năm, trị giá tại chỗ 6 xu sterling mỗi pound. Chúng yêu cầu ít công chăm sóc, và việc này có thể được thực hiện bằng cày hoặc cuốc. Công việc chính là thu hoạch quả, khi chúng hình thành. Mỗi cây phải được hái hai ngày một lần từ cuối tháng 6 đến giữa tháng 10. Nhưng đây là công việc của phụ nữ và trẻ em. Cây phát triển tốt ở bất kỳ loại đất khô nào hoặc thậm chí trên tường nơi không có đất, và chúng sống được cả đời người. Toulon sẽ là cảng thích hợp để tìm mua chúng. Tôi phải lưu ý rằng các chi tiết trên không thể tin cậy hoàn toàn, vì ở khu vực trồng loại cây này, cư dân không nói ngôn ngữ viết, mà là một thứ pha trộn mà tôi chỉ có thể hiểu rất mơ hồ.
Cây vả và cây dâu tằm đã quá quen thuộc ở Mỹ nên không cần nói gì thêm về chúng. Việc trồng trọt chúng cũng do phụ nữ và trẻ em thực hiện, và do đó rất đáng mong muốn ở những quốc gia có nô lệ. Ở những nơi này, phụ nữ và trẻ em thường phải làm những công việc không phù hợp với giới tính và tuổi tác của họ. Bằng cách giới thiệu cho chủ nhân những đối tượng canh tác dễ dàng và mang lại lợi ích tương đương, mọi cám dỗ sử dụng sai mục đích sẽ được loại bỏ, và số phận của bộ phận yếu ớt này trong loài người chúng ta sẽ được cải thiện đáng kể. Bằng cách đa dạng hóa các mặt hàng canh tác, chúng ta cũng nhân lên cơ hội tạo ra thứ gì đó, và làm giảm đáng kể tác động tai hại của các mùa.
Cây ô liu là một loại cây ít được biết đến nhất ở Mỹ, nhưng lại đáng được biết đến nhất. Trong tất cả những món quà mà trời ban cho con người, nó đứng thứ hai, nếu không phải là quý giá nhất. Có lẽ nó còn đáng được ưu tiên hơn cả bánh mì; bởi vì có vô số loại rau mà nó biến thành một nguồn dinh dưỡng phù hợp và thoải mái. Khi vượt qua dãy Alps ở Col de Tende, nơi chỉ là những khối đá, bất cứ nơi nào có một chút đất, đều có một số cây ô liu, và một ngôi làng sống nhờ chúng. Loại bỏ những cây này, và cùng một vùng đất trồng ngô sẽ không nuôi sống nổi một gia đình nào. Một pound dầu có thể mua với giá 3d. hoặc 4d. sterling tương đương với nhiều pound thịt nhờ lượng rau củ nó sẽ chế biến và biến thành thức ăn phù hợp và dễ chịu.
Nếu không có cây này, tỉnh Provence và lãnh thổ Genoa sẽ không nuôi sống được một nửa, có lẽ không một phần ba, dân số hiện tại của họ. Bản chất của đất ít quan trọng, nếu nó khô ráo. Cây được trồng cách nhau từ 15 đến 20 feet, và, khi khá tốt, sẽ cho năng suất trung bình 15 hoặc 20 pound dầu mỗi năm. Có những cây cho năng suất cao hơn nhiều. Chúng bắt đầu cho năng suất tốt ở tuổi 20, và kéo dài cho đến khi bị chết vì lạnh, điều này xảy ra vào lúc này hay lúc khác ngay cả ở những vị trí tốt nhất của chúng ở Pháp. Nhưng chúng lại mọc lại từ rễ.
Ở Ý, tôi được biết họ có những cây 200 năm tuổi. Chúng mang lại một công việc dễ dàng nhưng liên tục trong suốt cả năm, và yêu cầu rất ít chất dinh dưỡng, đến nỗi, nếu đất phù hợp cho bất kỳ sản phẩm nào khác, nó có thể được canh tác giữa các cây ô liu, mà không làm hại chúng. Giới hạn phía Bắc của cây này là dãy núi Cevennes từ khoảng kinh tuyến Carcassonne đến sông Rhone, và từ đó là dãy Alps và Appennines đến tận Genoa, tôi biết, và xa hơn nữa thì tôi không được thông báo. Sự che chắn của những ngọn núi này có thể được coi là tương đương với ít nhất một độ rưỡi vĩ độ; bởi vì về phía Tây của điểm khởi đầu của dãy Cevennes không có cây ô liu nào ở vĩ độ 43½° hoặc thậm chí 43°; trong khi chúng ta tìm thấy chúng hiện nay trên sông Rhone ở Pierrelatte ở 44½° và trước đây chúng ở Tains, phía trên cửa sông Isere ở 45°, được che chắn bởi sự gần gũi của dãy Cevennes và Alps, nơi chỉ để lại một lối đi cho sông Rhone. Liệu có sự che chắn như vậy tồn tại hay không ở các bang South Carolina và Georgia, tôi không biết. Nhưng chúng ta có thể nói rằng, hoặc nó tồn tại, hoặc nó không cần thiết ở đó: bởi vì chúng ta biết rằng chúng trồng cam quýt ngoài trời; và bất cứ nơi nào cam quýt có thể sống sót, kinh nghiệm cho thấy cây ô liu sẽ phát triển tốt; vì nó là một loại cây cứng cáp hơn.
Mặc dù sản xuất một lượng lớn dầu ở Pháp, họ không đủ dùng cho tiêu thụ của mình, và do đó nhập khẩu từ các nước khác. Đây là một mặt hàng mà mức tiêu thụ sẽ luôn song hành với sản lượng của nó. Hãy trồng nó; và nó sẽ tự tạo ra nhu cầu. Ít dầu được mang đến Mỹ vì châu Âu không có dư thừa để cung cấp. Do đó chúng ta chưa học được cách sử dụng nó. Nhưng hãy phủ kín các bang phía Nam bằng nó, và mỗi người đàn ông sẽ trở thành một người tiêu thụ dầu, trong tầm với của họ về giá cả. Nếu ký ức của những người đã đưa cây lúa vào trồng ở South Carolina, một loại cây gieo rắc sự sống và cái chết gần như ngang nhau, được tôn trọng rất nhiều ở đó, thì những nghĩa vụ nào sẽ thuộc về người sẽ đưa cây ô liu vào, và làm gương cho việc trồng trọt nó!
Nếu chủ nô lệ chỉ coi đó là phương tiện để cải thiện điều kiện sống của họ, họ sẽ cải thiện điều đó đến mức nào bằng cách trồng một trong những cây đó cho mỗi nô lệ họ sở hữu! Tự mình chứng kiến những phúc lành mà cây này ban cho người nghèo, tôi chưa bao giờ mong muốn mãnh liệt như vậy cho việc giới thiệu bất kỳ loại cây trồng mới nào vào đất nước của chúng ta. South Carolina và Georgia dường như đối với tôi là những bang mà thành công của nó, ít nhất là ở những vị trí thuận lợi, không thể nghi ngờ, và tôi tự hào rằng nó sẽ nằm trong tầm nhìn của hội nông nghiệp để bắt đầu các thí nghiệm nhằm chứng minh tính khả thi của nó. Carcassonne là nơi có thể có được cây con một cách chắc chắn và rẻ nhất. Chúng có thể được gửi từ đó bằng đường thủy đến Bordeaux, nơi chúng có thể được đưa lên tàu đi Charleston. Có quá ít giao thương giữa Charleston và Marseilles để đề xuất đây là cảng xuất khẩu. Tôi xin phục vụ hội trong việc mua và chuyển bất kỳ số lượng cây con nào được yêu cầu.
Trước khi tôi bỏ qua chủ đề khí hậu và các loại cây trồng thích nghi với chúng, tôi sẽ bổ sung một điều thú vị và cũng có ích, đó là chuyến đi của tôi qua các vùng phía Nam nước Pháp và lãnh thổ Genoa, nhưng đặc biệt hơn là việc vượt qua dãy Alps, đã giúp tôi hình thành một thang đo về các loại cây trồng mềm yếu hơn, và sắp xếp chúng theo khả năng chịu lạnh khác nhau của chúng. Khi vượt qua dãy Alps ở Col de Tende, chúng tôi liên tiếp vượt qua ba ngọn núi rất cao. Khi đi lên, chúng tôi mất dần các loại cây này khi lên cao và tìm thấy chúng lại theo thứ tự ngược lại, khi chúng tôi đi xuống phía bên kia, và điều này lặp lại ba lần. Thứ tự của chúng, từ mềm yếu nhất đến cứng cáp nhất, như sau: Caper, Orange, Palm, Aloe, Olive, Pomegranate, Walnut, Fig, Almond. Nhưng điều này chỉ áp dụng cho cây: vì về quả, thứ tự có phần khác biệt. Ví dụ, Caper là loại cây mềm yếu nhất, nhưng vì dễ bảo vệ nên nó nằm trong số những loại cây cho quả chắc chắn nhất. Hạnh nhân, loại cây cứng cáp nhất, lại thường xuyên mất quả nhất, do ra quả sớm. Cây cọ, cứng cáp hơn Caper và Orange, không bao giờ ra quả hoàn hảo ở đây.
Tôi vinh dự gửi ngài năm ngoái một số hạt giống của Sulla xứ Malta, hay cỏ ba lá Tây Ban Nha. Để đề phòng trường hợp đó bị thất lạc, tôi hiện đóng gói cùng với gạo một hộp hạt giống cùng loại do chính tôi trồng. Qua Đại tá Franks, vào tháng 2 vừa qua, tôi đã gửi một gói hạt sồi bần, và tôi đã nhờ ông ấy chuyển lời nhờ các Đại biểu của South Carolina tại Quốc hội chuyển giúp cho ngài.
Tôi xin trân trọng kính gửi ngài những tình cảm quý trọng và tôn kính nhất. Kính thư, người phục vụ tận tụy và khiêm tốn nhất của ngài,
Th: Jefferson
Thư của Thomas Jefferson gửi William Drayton, ngày 13 tháng 1 năm 1788
Kính gửi Ngài William Drayton,
Paris, ngày 13 tháng 1 năm 1788
Thưa Ngài,
Thông qua thuyền trưởng Shewell, người dự kiến sẽ khởi hành vào khoảng thời gian này từ Marseille đi cảng Charleston (Mỹ), tôi đã chỉ thị chuyển tiếp cho ngài một trong hai kiện gạo thô mà tôi đã mang về từ Ai Cập. Kiện còn lại đã được chuyển đến tôi ở đây và sẽ được mang từ Havre đến New York, gửi đến ngài, thông qua sự chăm sóc của các đại biểu Nam Carolina trong Quốc hội. Tôi mong cả hai kiện sẽ đến kịp thời vụ gieo hạt sắp tới, và rằng các thử nghiệm với loại gạo này, cùng với gạo Piedmont, có thể mang lại những lợi ích mới cho nền nông nghiệp của ngài. Tôi rất hy vọng sẽ nhận được một số gạo khô từ Cochinchina (Đàng Trong), vị hoàng tử trẻ của quốc gia đó, vừa rời khỏi đây, đã cam kết sẽ gửi nó cho tôi. Nhưng sẽ mất một thời gian nữa. Tất cả những điều này chỉ là thử nghiệm; tuy nhiên, lời răn dạy "hãy thử mọi thứ, và giữ chặt điều tốt" là rất khôn ngoan.
Thư của ngài đề ngày 22 tháng 5 năm 1787 cho tôi biết rằng thư của tôi ngày 6 tháng 5 năm 1786 chưa bao giờ đến tay ngài. Bây giờ tôi xin vinh dự gửi kèm theo đây một bản sao của bức thư đó, không có ý nghĩa gì khác ngoài việc cho ngài thấy rằng tôi không thể có sự vô ý không thể tha thứ đến vậy, như việc thất lạc bức thư đó đã khiến tôi bị ngài trách móc. Tôi sẽ tận dụng các cơ hội để gửi thêm hạt giống cỏ ba lá Tây Ban Nha cho ngài, một số hạt tôi đã nhận được trực tiếp từ Maltha.
Tôi xin trân trọng kính gửi ngài với những tình cảm quý trọng và tôn kính nhất, thưa Ngài, người phục vụ tận tụy và khiêm tốn nhất của ngài,
Th: Jefferson
Thư của Thomas Jefferson gửi Malesherbes, ngày 11 tháng 3 năm 1789
Kính gửi Malesherbes,
Paris, ngày 11 tháng 3 năm 1789.
Thưa Ngài,
Lòng nhiệt thành của ngài trong việc thúc đẩy lợi ích chung của nhân loại thông qua việc trao đổi những thứ hữu ích, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, cùng với tầm ảnh hưởng mà địa vị và chức vụ của ngài mang lại, đã thôi thúc tôi thỉnh cầu ngài giúp đỡ để có được một loài lúa được trồng ở Cochinchina (Đàng Trong) trên vùng đất cao, không cần tưới tiêu gì khác ngoài lượng mưa thông thường. Nắng và đất của Carolina đủ mạnh để đảm bảo sự thành công của loại cây này. Monsieur de Poivre đã mô tả chất lượng của nó đến mức có thể khuyến khích người Carolina đưa nó vào thay vì loại hiện tại họ đang sở hữu, vốn yêu cầu toàn bộ vùng đất phải ngập nước trong một mùa nhất định trong năm, khiến nhiều cư dân tử vong hàng năm vì sốt dịch hạch.
Nếu ngài vui lòng quan tâm đến việc tìm kiếm cho tôi một số hạt giống lúa khô từ Cochinchina (Đàng Trong), ngài sẽ mang lại một dịch vụ vô cùng quý giá cho đồng bào của tôi, thay mặt họ tôi mạo muội thỉnh cầu sự can thiệp của ngài. Đồng thời, tôi rất vui khi tìm được dịp này để lặp lại sự kính trọng và quý mến mà tôi vinh dự dành cho ngài.
Kính thư, người phục vụ tận tụy và khiêm tốn nhất của ngài,
Th: Jefferson
Nguyễn Cảnh Bình