Báo động tình trạng an ninh nguồn nước hiện nay ở nước ta
Thứ ba, 16/09/2025 - 06:32 (GMT+7)
TCVM - An ninh nguồn nước đang trở thành một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ XXI, không chỉ đối với thế giới mà còn đối với Việt Nam.
An ninh nguồn nước đang trở thành một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ XXI, không chỉ đối với thế giới mà còn đối với Việt Nam. Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, an ninh nguồn nước không chỉ đơn thuần là đủ nước cho các hoạt động sản xuất, sinh hoạt mà còn bao gồm khả năng bảo đảm chất lượng, bảo vệ hệ sinh thái nước và quản lý rủi ro liên quan đến thiên tai, ô nhiễm. Ở Việt Nam, với vị trí địa lý đặc thù và sự gia tăng nhu cầu sử dụng nước do phát triển kinh tế - xã hội, tình trạng an ninh nguồn nước đang ở mức đáng báo động.
Việt Nam có mạng lưới sông ngòi dày đặc với hơn 3.450 sông, suối dài trên 10 km; trong đó có 13 lưu vực sông lớn như sông Hồng - Thái Bình, sông Mê Kông (Cửu Long), sông Đồng Nai... Tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm vào khoảng 830 - 840 tý m3, nhưng có tới hơn 63% lượng nước này bắt nguồn từ ngoài lãnh thổ (đặc biệt là từ Trung Quốc, Lào, Campuchia).
Đây là yếu tố then chốt khiến Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn nước quốc tế. Ngoài nước mặt, Việt Nam có nguồn nước ngầm tương đối dồi dào, phân bố chủ yếu ở các đồng bằng ven biển và vùng đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long. Tuy nhiên, do khai thác quá mức và thiếu kiểm soát, mực nước ngầm tại nhiều nơi đang sụt giảm nghiêm trọng, dẫn đến xâm nhập mặn và sụt lún đất.
Hiện trạng an ninh nguồn nước ở nước ta
Thiếu hụt nguồn nước tại một số vùng
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, trung bình mỗi người dân Việt Nam hiện chỉ có khoảng 3.400 m3 nước/năm - thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới (khoảng 7.500 m%người/năm). Ở một số khu vực, đặc biệt là vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, tình trạng thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt diễn ra thường xuyên.
Biến đổi khí hậu khiến mùa khô kéo dài hơn, lượng mưa giảm và phân bố thất thường. Đồng bằng sông Cửu Long - "vựa lúa" của cả nước - đang phải đối mặt với nguy cơ xâm nhập mặn sâu vào nội đồng; nhiều kênh rạch khô hạn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư.
Ô nhiễm nguồn nước gia tăng
Ô nhiễm nguồn nước đang trở thành vấn đề nan giải. Sự phát triển nhanh của các khu công nghiệp, khu đô thị cùng với việc xả thải chưa qua xử lý khiến nhiêu con sông trở nên "chết" hoặc ô nhiễm nặng.
Điển hình như sông Nhuệ - Đáy, sông Đồng Nai, sông Cầu... nhiêu đoạn nước đen kịt, hàm lượng chất hữu cơ, amoni vượt tiêu chuẩn cho phép hàng chục lần. Ngoài ra, ô nhiễm nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu) cũng làm gia tăng hàm lượng dinh dưỡng (N, P) trong nước, gây phú dưỡng, tảo nở hoa, ảnh hưởng chất lượng nguồn nước ngọt.
Khai thác nước ngầm quá mức
Nước ngầm là "nguồn dự trữ" quan trọng cho các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM, Cần Thơ. Tuy nhiên, việc khai thác tràn lan, không có quy hoạch đang làm mực nước hạ thấp nhanh chóng. Ở TP.HCM, một số nơi mực nước ngâm đã hạ tới 1-2 m/ năm. Điều này không chỉ dẫn đến nguy cơ cạn kiệt mà còn gây sụt lún nên đất, xâm nhập mặn và ô nhiễm chéo giữa các tầng chứa nước.
Tác động từ các công trình thủy điện và khai thác thượng nguồn
Hơn 60% lượng nước sông của Việt Nam phụ thuộc vào nguồn nước từ các quốc gia thượng nguồn. Việc xây dựng các đập thủy điện lớn trên sông Mê Kông, sông Hồng (phía Trung Quốc) làm thay đổi chế độ dòng chảy, giảm lượng phù sa, gia tăng nguy cơ xâm nhập mặn ở đồng bằng và tác động tới hệ sinh thái hạ lưu. Đây là thách thức lớn đối với an ninh nguồn nước Việt Nam trong dài hạn.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng báo động
Gia tăng dân số và phát triển kinh tế
Dân số tăng nhanh cùng với quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa làm nhu câu nước tăng mạnh, đặc biệt là trong nông nghiệp (chiếm hơn 70% tổng lượng nước sử dụng), công nghiệp và dịch vụ.
Quản lý nhà nước còn chồng chéo
Chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên nước dù đã có nhiều tiến bộ (Luật Tài nguyên nước 2012, sửa đổi 2023) nhưng thực thi còn hạn chế, chồng chéo giữa các bộ ngành; thiếu cơ chế phối hợp liên vùng, liên ngành.
Biến đổi khí hậu và thiên tai
Nhiệt độ tăng, mưa thất thường, bão lũ cực đoan hơn làm gia tăng áp lực lên hệ thống tài nguyên nước. Xâm nhập mặn, hạn hán, lũ lụt luân phiên đe dọa an ninh nguồn nước cả về số lượng lẫn chất lượng.
Nhận thức cộng đồng còn hạn chế
Nhiều địa phương, doanh nghiệp và người dân chưa ý thức đầy đủ về giá trị của nước, còn lãng phí, sử dụng không hợp lý; xả thải chưa qua xử lý ra sông, suối vẫn phổ biến.

An ninh nước ngọt đang trở thành gánh nặng của Việt Nam
Tác động của tình trạng mất an ninh nguồn nước
Kinh tế: Thiếu nước ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Tổn thất mùa màng, tăng chi phí xử lý nước, suy giảm sản lượng thủy sản...
Xã hội: Khó khăn trong cung cấp nước sạch, gia tăng bệnh tật liên quan đến nước ô nhiễm, bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn nước.
Môi trường: Suy thoái hệ sinh thái nước ngọt, mất đa dạng sinh học, suy giảm khả năng tự làm sạch của các dòng sông.
An ninh quốc gia: Phụ thuộc vào nguồn nước ngoài lãnh thổ dễ dẫn đến xung đột lợi ích, đe dọa an ninh lương thực và sinh kế của hàng chục triệu người dân vùng hạ lưu.
Các giải pháp bảo đảm an ninh nguồn nước
Hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý
Nâng cao hiệu lực thực thi Luật Tài nguyên nước (sửa đối), tăng cường chế tài xử phạt xả thải gây ô nhiễm.
Xây dựng cơ chế phối hợp liên vùng, liên ngành trong quản lý tài nguyên nước, đặc biệt tại các lưu vực sông liên tỉnh.
Quy hoạch, phân bổ và sử dụng nước hiệu quả
Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông, ưu tiên nước cho sinh hoạt, sau đó mới đến sản xuất.
Ứng dụng công nghệ tiết kiệm nước trong nông nghiệp (tưới nhỏ giọt, tưới phun), công nghiệp tái sử dụng nước.
Bảo vệ và phục hồi nguồn nước
Xây dựng hành lang bảo vệ nguồn nước, trồng rừng đầu nguồn, tăng độ che phủ rừng.
Xử lý triệt để các nguồn gây ô nhiễm; nâng cấp hệ thống xử lý nước thải đô thị và công nghiệp.
Tăng cường hợp tác quốc tế
Tham gia tích cực các diễn đàn, ủy hội quốc tế về quản lý sông xuyên biên giới (như ủy hội sông Mê Kông), đàm phán chia sẻ nguồn nước công bằng, bền vững. Học hỏi mô hình quản lý nước tiên tiến từ các quốc gia phát triển.
Phát triển khoa học - công nghệ
Ứng dụng công nghệ quan trắc tự động chất lượng nước, mô hình dự báo nguồn nước. Phát triển công nghệ khử mặn, lọc nước ngọt, thu gom nước mưa.
Nâng cao nhận thức cộng đồng
Tuyên truyền, giáo dục về tiết kiệm nước, bảo vệ nguồn nước trong trường học, khu dân cư. Khuyến khích doanh nghiệp, người dân tham gia các chương trình giám sát, bảo vệ nguồn nước.
Vai trò của cộng đồng và doanh nghiệp
Cộng đồng đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ nguồn nước. Các tổ chức xã hội, hội nghề nghiệp có thể giám sát và phản ánh tình trạng ô nhiễm, thiếu nước;đồng thời triển khai các mô hình tiết kiệm, tái sử dụng nước. Doanh nghiệp cũng cần đầu tư công nghệ xử lý nước thải, tuân thủ nghiêm các quy định môi trường; tham gia trách nhiệm xã hội thông qua các chương trình bảo vệ nguồn nước.
Trong tương lai, nhu cầu nước của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng khi nền kinh tế chuyển sang công nghiệp - dịch vụ và dân số đạt ngưỡng 105 triệu người vào 2030. Biến đổi khí hậu dự báo ngày càng khốc liệt; các dự án thủy điện thượng nguồn vẫn tiếp tục mở rộng.
An ninh nguồn nước không chỉ là vấn đề tài nguyên mà còn là vấn đề an ninh quốc gia, sinh kế, sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững. Tình trạng báo động hiện nay ở Việt Nam đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng và hợp tác quốc tế. Bằng cách quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước, chúng ta mới có thể bảo đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội lâu dài và bền vững.
Tiến sĩ Nguyễn Thắng Cảnh
Tag (S):