Chủ Nhật, 14/12/2025 15:51

Tạp chí Việt Mỹ

Tất cả chuyên mục

Chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Thứ năm, 02/05/2024 - 06:39 (GMT+7)

TCVM - Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam từ lâu đời. Nhưng vì nhiều lý do, từ đầu thể kỷ XX nhiều nước đã và đang tìm mọi cách tranh chấp hai quần đảo này.

LTS: Quý vị bạn đọc đang theo dõi bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Thắng Cảnh,  Ủy viên Hội đồng Đối ngoại và Kiều bào – Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam. Bài viết này, lược phần các nghiên cứu của ông về chủ quyền Việt Nam với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Khẳng định bằng minh chứng khoa học và lịch sử, chủ quyền vĩnh cửu của chúng ta với hai quần đảo này. Toàn soạn Việt - Mỹ trân trọng giới thiệu bài viết này.

Tình hình tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo này đã diễn ra rất phức tạp.

Có nước nhảy vào chiếm đóng trái phép một cách trắng trợn, có nước lại đi dần từng bước, vừa thăm dò, vừa lấn chiếm. Có nước thì bộc lộ ý đồ tranh chấp đã gần trăm năm nay, có nước gần đây mới bắt đầu xen vào.

Tranh chấp quần đảo Hoàng Sa có Nhật Bản và Trung Quốc. Tranh chấp quần đảo Trường Sa thì có Nhật Bản, Anh, Trung Quốc, Philippines, Malaysia.

Cuốn sách của Tiến sĩ - Luật sư Nguyễn Thắng Cảnh

Vào những năm 20 của thế kỷ XX, Nhật Bản lấy lý do người Nhật đã từng đến lập nghiệp và khai thác phốt phát ở quần đảo Hoàng Sa để đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo này.

Trước Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Nhật đã cho quân chiếm đón quần đảo và lập những căn cứ quân sự ở đó. Năm 1945, Nhật thua trận, đã phải rút quân khỏi hai quần đảo, trả lại chủ quyền cho Pháp.

Tháng 9/1951, tại Hội nghị San Francisco, Nhật đã chấp nhận ghi trong Hòa ước “Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa”. Âm mưu của Nhật tranh giành quyền làm chủ đối với hai quần đảo này đến đây chấm dứt.

Nước Anh, từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, sau mấy chục năm xen vào tranh chấp với nhà cầm quyền Pháp ở quần đảo Trường Sa, cuối cùng tự thấy không có đủ cơ sở pháp lý để tiếp tục cuộc tranh chấp nên cũng đã lặng lẽ rút lui.

Cho đến nay chỉ còn lại Trung Quốc và Đài Loan tranh chấp chủ quyền đối với một số đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; Philippines và Malaysia tranh chấp chủ quyền đối với một số đảo ở quần đảo Trường Sa.

Thấm thoát 50 năm đã trôi qua, lớp bụi thời gian đã phần nào làm lu mờ sự kiện hải quân Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào tháng 1/1974, song quá khứ đau thương ấy, mãi mãi khắc ghi trong lịch sử dân tộc về một Hoàng Sa của Việt Nam bị kẻ thù chiếm đóng trái phép.

Việc Trung Quốc đang đóng chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa là xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.

Cho đến đầu thế kỷ XX, hàng loạt tài liệu và bản đồ chính  thức và nửa chính thức của Trung Quốc đều vẽ đảo Hải Nam là điểm cuối cùng về phía nam của lãnh thổ Trung Quốc (như Đại Thanh đế quốc toàn đồ do Thương vụ ấn thư quán Thượng Hải ấn hành năm 1905, in lại lần thứ 4 năm 1910) hoặc ghi rõ ràng “điểm cực nam của Trung Quốc nằm trên bờ biển Châu Nhai, phủ Quỳnh Châu – tức đảo Hải Nam” (như Hoàng Triều nhất thống dư địa toàn đồ in năm 1894, cũng như trong cuốn Trung Hoa địa lý học giáo khoa thư của Tuke năm 1906).

Năm 1895-1896, hai con tàu buôn La Bellona (của Đức) và Imeji Maru (của Nhật) chở đồng cho Anh bị đắm ở Hoàng Sa, người dân Trung Quốc ở đảo Hải Nam ra cướp đồng trên hai chiếc tàu đó đem về bán.

Người Anh lên tiếng phản đối, thì Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Tây và Quảng Đông) trả lời rằng quần đảo Hoàng Sa không thuộc về Trung Quốc, do đó Trung Quốc không chịu trách nhiệm gì về việc đó cả.

Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là rõ ràng và Việt Nam đã liên tục thực hiện chủ quyền do trong hàng mấy hàng mấy trăm năm không gặp sự phản đối nào của Trung Quốc và các nước khác ở Đông Nam Á.

Nhưng từ 1909 Trung Quốc bầy ra màn kịch cho ba chiếc tàu nhỏ của hải quân Trung Quốc ra Hoàng Sa để vin vào đó đòi có quyền với quần đảo Hoàng Sa mà họ gọi là Tây Sa.

Để từ đó tiến lên dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa bằng hai cuộc tấn công: năm 1956 và năm 1974. Năm 1988, sau khi khiêu khích quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng hải quân Trung Quốc đã chiếm 8 đảo và bãi trong quần đảo Trường Sa.

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được Chính phủ bảo hộ Pháp trao trả chủ quyền trước khi rút khỏi Đông Dương vào tháng 10/1950.

Ngay sau đó, chính quyền Bảo Đại cho quân đóng giữ và thực thi chủ quyền đối với quần đảo này. Đến năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Hoa Kỳ cho quân rút khỏi quần đảo Hoàng Sa.

Việc phòng thủ Hoàng Sa bị suy yếu.

Ngày 11/1/1974, Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố các quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một phần lãnh thổ của họ, mặc dù trên thực tế hai quần đảo này vào thời điểm đó đang được chính quyền Sài Gòn quản lý và thực thi chủ quyền.

Ngay sau đó, hải quân Trung Quốc đưa nhiều chiến hạm và tàu đánh cá có vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa.

Ngày 20/1/1974, ngoại trưởng chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cử ủy ban đặc biệt tới kiểm tra và đề nghị có những biện pháp cần thiết trước tình hình khẩn cấp về việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa.

Ngay sau đó, ngày 26/1/1974, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường "Về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam.

Mặc dù chính quyền cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam kêu gọi Trung Quốc chấm dứt ngay hành vi xâm phạm, song Trung Quốc không dừng lại mà còn tiến hành xây dựng và củng cố phòng thủ bất hợp pháp trên quần đảo này.

Sau khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Công hòa miền Nam Việt Nam đã nhiều lần tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam.

Ngày 5/6/1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã lên tiếng bác bỏ những thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa – Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền Việt Nam, từ trước đến nay đều do người Việt Nam quản lý.

Sách báo Trung Quốc gần đây thường viện dẫn các địa danh như Trướng Hải, Vạn Lý Trường Sa, Thiên Lý Thạch Đường, Thạch Đường, Cửu Nhũ Loa Châu, Thất Châu Dương... làm minh chứng cho chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo giữa Biển Đông đã có từ hàng nghìn năm trước.

Các địa danh Trướng Hải, Vạn Lý Trường Sa, Thiên Lý Thạch Đường, Thạch Đường, Cửu Nhũ Loa Châu thật ra chỉ là những địa danh phiếm chỉ một vùng biển đảo nguy hiểm, hư hư, ảo ảo nằm ngoài đảo Hải Nam và đương nhiên là không thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

Riêng Thất Châu Dương là vùng biển đảo có thật, được ghi chép rất rõ ràng trong thư tịch và bản đồ cổ Trung Quốc, gần huyện Văn Xương của đảo Hải Nam, thì lại bị người ta cố tình mơ hồ hoá, huyền thoại hoá và đẩy nó ra tận giữa Biển Đông!

Thư tịch và bản đồ cổ của Trung Quốc tính cho đến cuối thế kỷ XIX và thậm chí cả những năm cuối thập kỷ đầu của thế kỷ XX đều phản ánh một thực tế hết sức hiển nhiên là vùng lãnh thổ, lãnh hải truyền thống của Trung Quốc chưa bao giờ vượt quá đảo Hải Nam.

Bộ bản đồ có ảnh hưởng lớn nhất đến các nhà địa lý học Trung Quốc từ đầu thế kỷ XIV cho đến những năm cuối cùng của thế kỷ XIX là bộ Dư đồ của Chu Tư Bản (Chu Ssu - Pen) năm 1320.

Bản chính của Dư đồ không còn nữa, nhưng vẫn có thể hình dung được nó trên đại thể trong bộ bản đồ của La Hồng Tiên (Lo Hung-Hsien) ở vào khoảng giữa thế kỷ XVI với cái tên Quảng dư đồ.

Trong Quảng dư đồ từ tấm bản đồ giới thiệu chung về Trung Quốc cho đến tấm bản đồ Quảng Đông đều không có bản đồ nào vẽ lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả các đảo phía dưới đảo Hải Nam.

Khâm định Tứ khố toàn thư đề yếu Đại Thanh nhất thống chí là bộ sách đồ sộ gồm 500 quyển, được biên soạn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua Thanh Càn Long.

Theo sắc chỉ năm Càn Long thứ 21 (1764) thì sách này được soạn trên cơ sở tập hợp tư liệu của các Thống bộ quán các tỉnh, phủ địa phương và kịp thời bổ sung những tình hình mới nhất.

Thế nhưng cũng như Quảng dư đồ, tất cả các địa danh huyền thoại như Vạn Lý Trường Sa, Thiên Lý Thạch Đường, Thạch Đường, Cửu Nhũ Loa Châu... đều không được nhắc tới và dĩ nhiên đều không được đặt trong bản đồ Trung Quốc.

Các sách bản đồ khác như Độc sử phương dư kỷ yếu, Quỳnh Châu phủ chí, Quảng Đông đồ thuyết, Quốc triều nhu viễn ký, Trung Quốc cận thế dư địa đồ thuyết... cũng đều không đề cập đến các địa danh này trong bản đồ.

Riêng Dương phòng tập yếu và Lịch đại dư địa đô mục lục tuy có đánh dấu các địa danh này nhưng lại không chứng minh chúng thuộc chủ quyền Trung Quốc.

Mãi cho đến năm 1909 mà tấm bản đồ Đại Thanh đế quốc vị trí, khu hoạch cũng vẫn chỉ vẽ vùng lãnh thổ cực nam của Trung Quốc dừng lại ở đảo Hải Nam. Đây là loại bản đồ phản ánh khách quan thực tế và tôn trọng sự thật lịch sử.

Khảo toàn bộ lịch sử Trung Quốc từ thời kỳ tối cổ cho đến trước năm 1909, chưa từng thấy có một văn kiện của bất cứ một triều đại nào khẳng định một cách chính thức, rõ ràng và thực sự chủ quyền của Trung Quốc ở khu vực các quần đảo giữa Biển Đông.

Khảo sát các công trình nghiên cứu, các bộ sưu tập tư liệu đồ sộ của người Trung Quốc trước sự kiện Lý Chuẩn ra Paracels vào năm 1909, chúng tôi cũng không thấy bất kỳ một tư liệu nào thuộc loại này xuất hiện.

Người làm cuốn sách Điều tra Tây Sa quần đảo báo cáo thư cho biết vào năm 1928 khi đoàn đi tìm kiếm mà “tra cứu về quần đảo Tây Sa không thấy sách xưa nào ghi chép, lại không có sách chuyên khảo nào chép rõ, nay soạn sách này cũng là một tác phẩm mở đầu".

Lục Đông á trong bài báo mang tên Nhận thức về quần đảo Tây Sa, không thể không thừa nhận một thực tế là: "Quần đảo Tây Sa được phát hiện từ thời kỳ nào, ở trong sách lịch sử, địa lý và bản đồ của Trung Quốc xưa thật không thể khảo cứu được".

Điều mà các nhà nghiên cứu Trung Quốc vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX không tìm  được bất cứ tài liệu gì nói đến các quần đảo này chỉ vì một lý do hết sức giản đơn là vùng lãnh thổ, lãnh hải truyền thống của Trung Quốc không vượt quá điểm cực nam đảo Hải Nam, tương đương với khoảng vĩ độ 18, và vốn chưa bao gồm những quần đảo xa xôi và hết sức nguy hiểm ở giữa Biển Đông.

Hiện nay, có ba vấn đề chính liên quan đến tranh chấp Biển Đông, đó là chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và quyền chủ quyền đối với các vùng biển.

Năm quốc gia và một thực thể, bao gồm Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Philippines, Brunei và Đài Loan đã đưa ra yêu sách đối với toàn bộ hoặc một phần của quần đảo Trường Sa.

Riêng đối với quần đảo Hoàng Sa là đối tượng tranh chấp song phương của Việt Nam và Trung Quốc.

Đồng thời, việc phân định Biển Đông còn phức tạp thêm bởi các yêu sách chồng lấn về thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế và "các yêu sách lịch sử" khác của các quốc gia ven biển.

Bên cạnh các tranh chấp song phương và đa phương khác tại Biển Đông mang tính kỹ thuật và cơ bản đã và sẽ được giải quyêt, tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là phức tạp và kéo dài nhất.

Phức tạp do các vấn đề về chiến lược, pháp lý, kinh tế và sự chồng chéo về lợi ích, sự đan xen giữa đối nội và đối ngoại của các nước liên quan.

Ngoài các yếu tố về chủ quyền, tinh thần dân tộc, vị trí địa chiến lược, việc sở hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ảnh hưởng đến việc phân định các vùng biển tại Biển Đông và biên giới trên biển giữa các nước, và qua đó là các quyền lợi to lớn về mặt kinh tế: năng lượng, thủy hải sản, hàng hải..

Các tranh chấp về lãnh thổ và các vùng biển mang tính lịch sử, đã kéo dài qua ba thế kỷ, mỗi thời kỳ có các nhân tố và diễn biến mới và hiện nay các hướng giải quyết vẫn còn để ngỏ.

Sau một thời gian tình hình bề ngoài của các tranh chấp có vẻ dịu đi, đến nay về thực chất các tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên tại đây vẫn còn hiện hữu và ảnh hưởng đến an ninh và phát triển của Việt Nam.

Việt Nam nằm trên bờ Biển Đông, có bờ biển dài hơn 3.260 km với hàng ngàn hòn đảo và quần đảo gần bờ, xa bờ, trong đó có những quần đảo như quần đảo Hoàng Sa cách bờ biển tới trên 150 hải lý, quần đảo Trường Sa cách bờ khoảng 250 hải lý v.v.. trên một vùng biển liền với đất liền không có gì ngăn cách.

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn thuộc về lãnh thổ Việt Nam Nam từ lâu đời.

Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu hai quần đảo từ khi chúng chưa thuộc về bất cứ quốc gia nào, và đã liên tục, thực sự thực hiện chủ quyền với danh nghĩa Nhà nước mà qua lịch sử mấy trăm năm không hề có một quốc gia nào lên tiếng phản đối.

Dư luận quốc tế cũng mặc nhiên công nhận. Các công ty nước ngoài kể cả ở các nước nằm ngoài phạm vi Biển Đông, khi muốn đến khai thác một hòn đảo nào cũng phải xin phép nhà cầm quyền theo đúng thủ tục.

Mặc dù hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu và luôn luôn thuộc chủ quyền của Việt Nam, nhưng Nhà nước ta luôn luôn chủ trương thương lượng hòa bình với những nước có liên quan để giải quyết các vấn đề một cách hợp tình hợp lý phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, phù hợp với xu thể đối thoại trong khu vực Đông Nam Á và với nguyện vọng của nhân dân thế giới.

TS. Nguyễn Thắng Cảnh

Tag (S):

tin mới cập nhật