Công tác trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc đang rất cấp bách
Thứ hai, 15/09/2025 - 09:50 (GMT+7)
TCVM - Phủ xanh đất trống, phục hồi đồi núi trọc không đơn thuần là hành động trồng cây mà là một chiến lược toàn diện liên quan tới môi trường, kinh tế, xã hội và bản sắc văn hóa.
Công tác trồng rừng, phục hồi hệ sinh thái trên các diện tích đất trống, đồi núi trọc không chỉ là nhiệm vụ bảo tồn thiên nhiên mà còn là vấn đề an sinh, phát triển bền vững và ổn định sinh kế của đồng bào sinh sống ven rừng và vùng núi. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, xói mòn đất, lũ lụt và hạn hán ngày càng gia tăng, việc phủ xanh lại những vùng đất bị thoái hóa trở thành một trong những giải pháp thiết yếu để bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng sống, và giảm thiểu rủi ro thiên tai cho cộng đồng.
Bài viết này phân tích thực trạng công tác trồng rừng, nêu rõ các tác động tích cực - cũng như những thách thức - của rừng hiện nay đối với đời sống đồng bào, đồng thời đề xuất một số giải pháp thực tiễn nhằm gia tăng lợi ích từ rừng cho cộng đồng.
Trong nhiều khu vực miền núi và trung du, đặc biệt ở những vùng chịu tác động nặng của khai thác tài nguyên, phá rừng đế mớ diện tích canh tác hoặc do cháy rừng, diện tích đất trống và đồi núi trọc còn khá lớn.
Những năm gần đây, với chính sách giao đất giao rừng, chương trình trồng rừng phòng hộ - sản xuất và một số dự án phục hồi rừng, tốc độ trồng rừng đã tăng lên, góp phần cải thiện độ che phủ rừng. Tuy nhiên chất lượng rừng trồng, lựa chọn loài, phương pháp quản lý và khả năng phục hồi tự nhiên vẫn là vấn đề tồn tại. Ở nhiều nơi, rừng trồng là cây đơn loài (như keo, bạch đàn), khả năng thích nghi kém, dẫn tới suy giảm đa dạng sinh học và dễ bị sâu bệnh.
Bên cạnh đó, việc thiếu liên kết giữa công tác trồng rừng với sinh kế bền vững cho người dân làm giảm động lực bảo vệ rừng lâu dài.
Ổn định nguồn nước và giảm rủi ro thiên tai
Rừng đóng vai trò then chốt trong điều hòa thủy văn: giữ nước, giảm chảy tràn bề mặt, hạn chế xói mòn và sạt lở. Đối với các cộng đồng sống ở hạ du và ven sông suối, rừng phòng hộ trên đầu nguồn giúp giảm tần suất và cường độ lũ, đồng thời duy trì lưu lượng nước trong mùa khô.
Ở những vùng có địa hình dốc như miền núi, việc phủ xanh đồi trọc có thể làm giảm nguy cơ sạt lở, bảo vệ đường giao thông, nhà cửa và ruộng nương. Khi hệ rễ cây bám giữ đất tốt, đất không bị cuốn trôi trong mưa bão, khiến đời sống người dân bớt chịu thiệt hại về tài sản và mùa màng.
Cải thiện chất đất và năng suất nông nghiệp
Rừng và mảng xanh giúp tăng chất hữu cơ cho đất thông qua lá rụng và vật chất thực vật phân hủy, cải thiện cấu trúc đất và khả năng giữ nước. Trồng cây phủ xanh trên đất trống không những phục hồi độ phì nhiêu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nông-lâm kết hợp: trồng rừng kết hợp chăn nuôi, trồng cây lấy quả, cây dược liệu dưới tán rừng. Kết quả là năng suất nông nghiệp của các nương rẫy và vườn vải, cà phê, chè... có thế tăng lên, đồng thời giảm nhu cầu mở thêm rừng để canh tác.
Tăng thu nhập và đa dạng sinh kế
Rừng cung cấp nhiều sản phẩm ngoài gỗ: nấm, măng, thuốc nam, quả rừng, mật ong rừng, tre nứa, lâm sản phụ trợ... Nếu được quản lý và khai thác bền vững, những sản phẩm này có thể trở thành nguồn thu nhập quan trọng cho hộ gia đình nghèo vùng núi. Một số mô hình trồng rừng kết hợp lâm-ngư, lâm-nông cho thấy hiệu quả kinh tế cao khi người dân vừa trông cây công nghiệp dài ngày vừa tận dụng mặt bằng cho trồng rau, thả gia súc, nuôi ong. Đồng thời, các chương trình trả công trồng rừng, bảo vệ rừng (như các hợp đồng dịch vụ môi trường rừng) đem lại việc làm, tiền công cho lao động địa phương, góp phần giảm nghèo.
Bảo tồn văn hóa và lối sống cộng đồng
Với nhiều dân tộc thiểu số, rừng gắn chặt với bản sắc văn hóa, tín ngưỡng và tri thức bản địa. Rừng là nơi cung cấp nguyên liệu, tạo cảnh quan tâm linh, và là kho tri thức về dược liệu, nghề thủ công truyền thống. Việc phục hồi rừng và giữ gìn hệ sinh thái giúp bảo tồn cách sống, lễ hội, và nghề truyền thống của cộng đồng. Ngoài ra, phát triển du lịch sinh thái bền vững dựa trên rừng có thể mang lại lợi ích văn hóa và kinh tế nếu cộng đồng được tham gia chủ động và hưởng lợi trực tiếp.
Tác động tới sức khỏe cộng đồng
Rừng tốt giúp cải thiện chất lượng không khí, giảm bụi và ô nhiễm, đồng thời tạo môi trường mát mẻ, cải thiện vi khí hậu địa phương. Môi trường sống lành mạnh giảm bớt một số bệnh truyền nhiễm liên quan tới nước ô nhiễm và điều kiện sống kém. Tuy nhiên, nếu rừng trồng bằng loài đơn thuần và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong hệ thống nông-lâm kết hợp, có thể phát sinh vấn đề sức khỏe nếu hóa chất bị lạm dụng.
Tác động xã hội - quyền sử dụng đất và xung đột
Công tác trồng rừng nếu không được tổ chức công bằng có thể tạo ra xung đột về quyền sử dụng đất giữa nhà nước, công ty và cộng đồng. Việc giao khoán rừng nếu thiếu minh bạch khiến một số hộ dân mất quyền tiếp cận nguồn lợi truyền thống, dẫn tới mất sinh kế. Ngược lại, khi người dân được giao quyền sử dụng và tham gia quản lý, họ có trách nhiệm bảo vệ rừng tốt hơn và hưởng lợi lâu dài.

Công tác trồng rừng, phủ xanh đất trống đang rất được quan tâm
Những thách thức trong liên hệ giữa trồng rừng và đời sống đồng bào
Chất lượng rừng trồng thấp: Trồng cây đơn loài và thuần canh không mang lại hệ sinh thái đa dạng; rừng dễ bị sâu bệnh, cháy rừng, và không cung cấp đầy đủ dịch vụ sinh thái.
Thiếu liên kết thị trường: Đồng bào thu hoạch lâm sản phụ trợ nhưng thiếu đầu ra ổn định và tổ chức liên kết thị trường để bán sản phẩm với giá hợp lý.
Quyền lợi và chính sách chưa rõ ràng: Việc phân chia lợi ích từ các dự án trồng rừng đôi khi bất cân xứng, thiếu cơ chế bồi thường, hỗ trợ chuyển đổi sinh kế.
Thiếu nguồn lực kỹ thuật và tài chính: Nhiều hộ dân không có kỹ thuật trồng, chăm sóc rừng, bảo vệ rừng; thiếu vốn để đầu tư vào mô hình trồng rừng chất
Giải pháp và khuyến nghị nhằm tăng cường lợi ích của rừng cho đồng bào
Ưu tiên trồng rừng đa chức năng, đa loài, phù hợp địa phương
Chuyển từ mô hình trồng đại trà cây công nghiệp đơn loài sang trồng hỗn giao, kết hợp loài bản địa có giá trị lâm nghiệp và giá trị sử dụng địa phương. Điều này giúp tăng đa dạng sinh học, cải thiện hệ sinh thái, giảm rủi ro sâu bệnh và đồng thời cung cấp nhiều sản phẩm cho cộng đồng.
Liên kết chuỗi giá trị và thị trường cho lâm sản phụ trợ
Hỗ trợ hình thành tổ hợp tác, hợp tác xã cho người thu hái lâm sản phụ trợ, cung cấp tập huấn sơ chế, bảo quản và truy xuất nguồn gốc để tiếp cận thị trường tốt hơn. Nhà nước và tổ chức phát triển có thể hỗ trợ xúc tiến thương mại, kết nối doanh nghiệp chế biến tiêu thụ.
Giao quyền sử dụng, quản lý rừng cho cộng đồng theo nguyên tắc công bằng
Nâng cao tính minh bạch trong giao khoán, đảm bảo quyền tiếp cận nguồn tài nguyên rừng cho cộng đồng bản địa, kèm theo cơ chế giám sát và trách nhiệm rõ ràng. Khuyến khích hợp đồng giao nhận khoán rừng dài hạn để người dân yên tâm đầu tư.
Hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho người dân
Cung cấp vốn ưu đãi, kỹ thuật trồng, chăm sóc rừng, hướng dẫn canh tác bền vững, phòng chống cháy rừng và quản lý dịch hại. Các chương trình viện trợ, dự án phát triển nên kết hợp huấn luyện nghề và nâng cao năng lực quản trị cho cộng đồng.
Phát triển dịch vụ môi trường rừng (PES) và cơ chế thanh toán dịch vụ hệ sinh thái
Mở rộng các chương trình trả công cho người bảo vệ rừng thông qua cơ chế chi trả dịch vụ môi trường (ví dụ: nước sạch, giảm lũ, hấp thụ cacbon). Cơ chế này vừa tạo nguồn thu ổn định cho cộng đồng, vừa khuyến khích bảo vệ và phục hồi rừng.
Kết hợp du lịch sinh thái bền vững và bảo tồn văn hóa
Hỗ trợ cộng đồng phát triển du lịch sinh thái, homestay, trải nghiệm văn hóa bản địa, với quy trình đảm bảo lợi ích phân chia công bằng và bảo tồn môi trường.
Nâng cao nhận thức và giáo dục môi trường
Tổ chức chương trình giáo dục, truyền thông về vai trò của rừng, kỹ thuật trồng rừng, và lợi ích lâu dài để thay đổi hành vi phá rừng vì lợi ích trước mắt.
Phủ xanh đất trống, phục hồi đồi núi trọc không đơn thuần là hành động trồng cây mà là một chiến lược toàn diện liên quan tới môi trường, kinh tế, xã hội và bản sắc văn hóa. Khi được thiết kế và thực hiện một cách khoa học - với sự tham gia trực tiếp và hưởng lợi công bằng của đồng bào - rừng có thể đem lại lợi ích to lớn: bảo vệ nguồn nước, giảm thiên tai, tăng độ phì nhiêu đất, đa dạng hóa sinh kế và bảo tồn văn hóa.
Để đạt được điều đó, cần chuyển đối từ mô hình trồng rừng ngắn hạn, đơn loài sang trồng rừng đa chức năng, kết hợp hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, quyền quản lý rõ ràng và liên kết thị trường cho sản phẩm rừng. Chỉ khi người dân là chủ thể được hưởng lợi chính trong quá trình phục hồi rừng thì công tác trồng rừng mới thực sự bền vững và góp phần nâng cao đời sống của đồng bào vùng đồi núi.
Tiến sĩ Nguyễn Thắng Cảnh
Tag (S):