Thứ Năm, 30/10/2025 19:35

Tạp chí Việt Mỹ

Tất cả chuyên mục

Xuân Oanh "Mười chín tháng Tám" đích thị là một nhà ngoại giao nhân dân tài ba

Thứ tư, 06/09/2023 - 06:00 (GMT+7)

TCVM - Đỗ Xuân Oanh được biết đến là một trí thức yêu nước, một nhà Ngoại giao Nhân dân tài ba. Ông cũng là tác giả của ca khúc “Mười chín tháng Tám” bất hủ.

Từ cậu bé đánh giày đến người nhạc sĩ tài ba

Mới chỉ học hết lớp 4, cậu bé Đỗ Xuân Oanh đã phải xa gia đình lăn lộn từ Quảng Ninh, Hải Phòng làm đủ mọi việc để kiểm sống: từ làm thợ đúc thiếc, thợ điện….

Vốn lanh lợi nên ông học việc rất nhanh. Trong thời gian ở Hải Phòng, Xuân Oanh có cơ hội quen biết Văn Cao, Nguyễn Đình Thi và giới trẻ cách mạng.

Đầu những năm 1940, ông lên Hà Nội, ban ngày làm ở một hiệu giày gần Bờ Hồ, tối đi dạy học hay hát thuê. Người chủ hiệu giày trả công 4 đồng/ một tháng. Thấy Xuân Oanh biết tiếng Pháp, ông ta nói sẽ trả thêm nếu bán được giày bằng tiếng Anh. 

Bắt đầu học tiếng Anh như thế, không ngờ chỉ ít năm sau, cậu bé đánh giày năm nào đã trở thành một trong hai phát thanh viên tiếng Anh đầu tiên của Đài Tiếng nói Việt Nam sau cách mạng.

“Thời học tiểu học, tôi có chút vốn tiếng Pháp. Khi lặn lội kiếm sống ở vùng biển Quảng Ninh, tôi có cơ hội tiếp xúc với nhiều thủy thủ nước ngoài, nên đã nâng cao trình độ giao tiếp tiếng Pháp và học lỏm được tiếng Anh. Phải nói là cái tai âm nhạc giúp tôi nhiều trong việc học ngoại ngữ. Khi nghe người nước ngoài nói, tôi cố gắng nghe phần âm nhạc trong tiếng của họ, thuộc từng câu trọn vẹn, rồi hát lên. Nhớ lần chuẩn bị bài phát biểu ở hội nghị quốc tế Chống chiến tranh hạt nhân ở Hiroshima (Nhật Bản), tôi đã nhờ một bạn Nhật đọc cho nghe, rồi tập lại và lên nói rất thành công. Các bạn Nhật cứ hỏi tôi đã học ở đâu mà phát âm như người Nhật vậy. Sau này, mỗi lần đi nước ngoài, tôi cố học thêm một ngoại ngữ, nên bây giờ có thể dùng thành thạo 5 thứ tiếng”, ông Đỗ Xuân Oanh chia sẻ.

Chân dung Nhà ngoại giao, Nhà văn hoá, Nhạc sĩ Đỗ Xuân Oanh

Người bạn thời còn ở Hải Phòng của Xuân Oanh là Nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi đã đưa ông đến với Cách mạng. Ông hoạt động trong Đội tuyên truyền khởi nghĩa, vận động kết nạp nhiều thanh niên vào tổ chức Việt Minh, kêu gọi đồng bào vùng lên đánh Pháp đuổi Nhật.

Ngày 19/8/1945, ông tham gia khởi nghĩa tại Hà Nội. Vào thời khắc hừng hực khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân Thủ đô và cả dân tộc, Xuân Oanh dẫn đầu đoàn biểu tình và khúc tráng ca “Mười chín tháng Tám” được vang lên trên đường từ Giáp Bát đến trung tâm Hà Nội. 

Sáng tác được câu nào Xuân Oanh dạy anh em đoàn biểu tình câu đó, đến tòa nhà Bắc bộ phủ thì bài hát cũng hoàn thành. Đến bây giờ mỗi độ kỷ niệm Cách mạng tháng 8 và Quốc Khánh 2/9 bài hát vẫn còn nguyên cảm xúc đầy hào sảng.

Năm 1946, Đỗ Xuân Oanh tham gia tự vệ Hà Nội, dũng cảm chiến đấu tại nội thành với quân Pháp xâm lược. Ngày 6/10/1947, ông được kết nạp vào đội ngũ những người Cộng sản Việt Nam, công tác ở Ban Dân quân Khu 9 thuộc các vùng Hà Nội, Hà Đông, Hà Tây rồi được cử lên chiến khu Việt Bắc làm ở Báo Cứu quốc khi đó do đồng chí Xuân Thuỷ là Uỷ viên Tổng bộ Việt Minh phụ trách.

Ngày 19 tháng 11 năm 1950, Uỷ ban Bảo vệ hoà bình Thế giới của Việt Nam được thành lập, ôngchuyển sang công tác tại Uỷ ban và làm Thư kí cho đồng chí Xuân Thuỷ. 

Có vốn tiếng Pháp, tiếng Anh, ông được giao nghe đài phương Tây để viết tin quốc tế, qua chiếc đài này mà ông tự học và sử dụng thành thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc và tiếng Nga.

Theo yêu cầu của cấp trên, Xuân Oanh làm việc qua nhiều công việc ở nhiều cơ quan nhưng nơi gắn bó lâu dài là Ủy ban Hòa bình Việt Nam, công tác ngoại giao nhân dân. Ông là thành viên tham gia những hội nghị Giơ- ne - vơ năm 1962 về Lào, Hội nghị Paris về Việt Nam giai đoạn 1968-1972.

Ông Nguyễn Văn Huỳnh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Hòa bình Việt Nam, người có thời gian dài làm việc với Xuân Oanh kể: “Xuân Oanh có tư chất rất khác lạ, một người có năng khiếu bẩm sinh về ngoại ngữ, đây là một yêu cầu của ngoại giao nhân dân, mình nói bằng tiếng nước họ, rào cản ban đầu sẽ được dỡ bỏ, Xuân Oanh lại tìm hiểu rất sâu sắc về lịch sử, văn hóa nước họ nên có người đã nói: Nhờ Xuân Oanh tôi hiểu được lịch sử và văn hóa Việt Nam và thêm hiểu lịch sử và văn hóa… nước tôi”.

 Nhà ngoại giao Nhân dân tài ba, nhà văn hoá yêu nước

Trong mắt bạn bè quốc tế và đặc biệt là những nhà ngoại giao, Đỗ Xuân Oanh là một trong số các nhà văn hoá mà nhiều người nước ngoài đến Việt Nam đều muốn tìm gặp để trò chuyện, để tìm hiểu. 

Xuân Oanh hấp dẫn người đối thoại bởi sự uyên bác, thân mật, giản dị mà chân thành, khiến cho cuộc trò chuyện với ông bao giờ cũng ấn tượng. 

Là nhà Ngoại giao Nhân dân, từ năm 1951, Xuân Oanh đã tham gia thành lập Uỷ ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam, rồi trở thành Tổng thư kí kiêm Phó chủ tịch Uỷ ban. 

Trong Hội nghị Paris về Việt Nam, từ 1968 đến 1972, ông tham gia Phái đoàn Việt Nam với tư cách đại diện Uỷ ban bảo vệ Hoà bình Việt Nam và Uỷ ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân Mỹ-Pháp, vận động phong trào chống chiến tranh xâm lược của Mỹ. 

Ông cũng từng đón tiếp nhiều nhà hoạt động chống chiến tranh từ Mỹ tới thăm Việt Nam giữa những ngày chiến tranh ác liệt, trong đó có cựu Thượng nghị sĩ G.McGovern, nguyên ứng cử viên Tổng thống Mỹ, nữ nghệ sĩ Jane Fonda và chồng bà khi đó là Tom Hayden…

Tom Hayden nguyên là Thượng nghị sĩ bang California, ông từng tham gia phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam, lãnh đạo Chiến dịch Hoà bình cho Đông Dương từ 1972 đến 1975. 

Trong bài viết của mình đăng trên báo Mỹ The Nation ngày 10/3/2008, ông kể về cuộc gặp cuối cùng của mình với Xuân Oanh: “Tôi đến thăm Đỗ Xuân Oanh, người đã đón tôi tại sân bay Hà Nội vào một ngày tháng Mười Hai 42 năm trước. Ông vừa dịch xong một số bài thơ của các nhà thơ nữ Việt Nam sang tiếng Anh. Như trong kí ức của tôi, Xuân Oanh yêu mến nước Mỹ theo kiểu không giống ai. Chẳng hạn, sau khi học tiếng Anh qua đài BBC, ông đã dịch cuốn Huckleberry Finn sang tiếng Việt, một thách thức ghê gớm. 

Là nhạc sĩ, ông có thể hát được rất nhiều bài hát phản đối chiến tranh do người Mỹ sáng tác. Là một người lãng mạn, ông rất dễ cảm xúc và thân thiết với rất nhiều người Mỹ.Triết lý sống đơn giản của ông là “sống để yêu”. Những người bạn Mỹ của ông kể lại, hồi quản phi công Mỹ ở Hỏa Lò, ông thường chia sẻ với phi công thuộc nhiều tiểu bang bằng tiếng địa phương của họ.Rồi ông ôm đàn, hát cho họ nghe những khúc hát đồng quê thanh bình của Mỹ”.

Ông Đỗ Xuân Oanh trong một lần làm phiên dịch viên cho Chủ tịch Hồ Chí Minh

Năm 1960, cuộc chiến của Hoa Kỳ chống Việt Nam tăng cường đáng báo động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Đỗ Xuân Oanh tìm cách đưa vấn đề này ra quốc tế, thông qua các tổ chức hòa bình và các tổ chức phi chính phủ, để gây ảnh hưởng đến các chính phủ nước ngoài nhằm gây áp lực, kêu gọi Hoa Kỳ rút quân và đàm phán chấm dứt chiến tranh. 

Nỗ lực đó của Đỗ Xuân Oanh đã giúp cho thế giới thấy rõ hơn Chính phủ Hoa Kỳ cản trở việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 và ngăn cản các cuộc bầu cử dân chủ năm 1956 là những hành động can thiệp không chính đáng, và cả thế giới được chứng kiến tình hình leo thang thành bạo lực. 

Quân đội hùng mạnh nhất trên thế giới phát động một cuộc chiến đe dọa nền độc lập và tự do của Việt Nam, một đất nước bé nhỏ ở Đông Dương. 

Sứ mệnh của Xuân Oanh là huy động các nhân chứng quốc tế đồng cảm và ủng hộ nền độc lập, tự do của Việt Nam nhằm thuyết phục Hoa Kỳ chấm dứt cuộc chiến tranh không tuyên bố và bất hợp pháp tại Việt Nam.

Từ năm 1964 đến khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1973, Xuân Oanh đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực, bao gồm công tác đối ngoại (đối ngoại nhân dân), điều phối các đoàn quốc tế đi thăm viếng, thậm chí hỗ trợ quản lý số tù binh Mỹ đang giam giữ tại các nhà tù ở Hà Nội. 

Trong những lĩnh vực rộng lớn này, ông được những người tiếp xúc với ông ghi nhận về sự hiểu biết, nghệ thuật, kỹ năng giao tiếp, ngoại giao và trên hết tính nhân văn của ông với tư cách là đại diện cho lợi ích toàn diện của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, đồng thời tiến hành những hoạt động này theo những cách thức vừa thuyết phục, vừa làm cho những người phương Tây nản lòng về chính quyền của họ.

Có thể nói Đỗ Xuân Oanh thể hiện trí tuệ cảm xúc ở mức độ cao cùng với trí tuệ siêu phàm mà ông đã có được thông qua tự học mà không cần sự trợ giúp của giáo dục chính quy.

Sau khi quân đội Hoa Kỳ không kích miền Bắc Việt Nam từ tháng 8 năm 1964, Xuân Oanh đã đi khắp châu Á và châu Âu đại diện cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại các hội nghị hòa bình quốc tế, tiếp xúc với các nhà ngoại giao quan trọng ở nhiều quốc gia. 

Ông kêu gọi các chính phủ và công dân các nước cùng  lên án những hành động không kích của Mỹ nhằm vào nhân dân Việt Nam.

Gặp gỡ được Oanh đã cho chúng tôi một cái nhìn sâu sắc về văn hóa và đời sống xã hội Việt Nam. Chủ nghĩa dân tộc của ông là chủ nghĩa cá nhân và đam mê. Khi chúng tôi đi dọc Bờ Hồ vào một buổi tối, ông ấy bắt đầu nói về văn hóa Việt Nam. Ông nhắc nhở chúng tôi rằng ngôn ngữ Việt là một ngôn ngữ thi ca đến nỗi đối thoại thông thường cũng trở thành thơ. 

Ông nói với vẻ tự hào rằng đó là một ngôn ngữ tinh tế và quý giá, “khó học hơn nhiều so với tiếng Trung Quốc”. Chúng tôi hiểu rằng nền văn hóa này đang khao khát được giải phóng khỏi những năm tháng mờ mịt do sự thống trị của các cường quốc lớn hơn”, ghi chép của hai tác giả người Mỹ Lynd và Hayden về nhà Ngoại giao Đỗ Xuân Oanh.

Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đoàn công tác dân vận tại nước ngoài năm 1948

Đỗ Xuân Oanh trong trái tim bạn bè và nhân dân Hoa Kỳ

Trong số những công dân quốc tế vì hòa bình mà Đỗ Xuân Oanh đã từng gặp gỡ có nhiều nhà hoạt động Mỹ. Trong số đó có nhiều người sau này đã đến Việt Nam để bày tỏ sự ủng hộ của nhân dân Mỹ và tìm cách thúc đẩy được tốt hơn mong muốn hòa bình của họ với các quan chức Chính phủ Hoa Kỳ và công chúng Mỹ. Hầu hết các nhóm hòa bình này đều tiếp xúc với Xuân Oanh và bằng nhiều con đường khác nhau để tìm cách chấm dứt chiến tranh.

Các tác giả người Mỹ vào những năm 1960 và 1970 ghi lại một số cuộc tiếp xúc với Đỗ Xuân Oanh. Một số người Mỹ đã thực hiện những chuyến đi đầy thử thách đến miền Bắc Việt Nam vào đầu năm 1965, bất chấp lệnh cấm của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Đến thời điểm người Mỹ rút quân, khoảng 200 công dân Hoa Kỳ đã thực hiện được một hoặc nhiều chuyến đi.

Một số nhà hoạt động vì hòa bình như John McAuliff đã đến Hà Nội vào ngày hiệp định Paris được ký kết. Nhiều nhà hoạt động, thậm chí có người kéo dài bảy đến tám năm, đều có chung một cảm xúc rằng không khí cởi mở và cuốn hút mà họ có được trong giao tiếp với người Việt Nam là nhờ vào “người dẫn chương trình” của họ, Xuân Oanh.

Các nhà hoạt động Staughton Lynd và Tom Hayden kể chi tiết chuyến đi này tới Bắc Việt Nam trong cuốn sách “Phía bên kia: Hai người Mỹ báo cáo về chuyến đi bị cấm đoán của họ tới Việt Nam” (The Other Side: Two American Report on their Forbidden Visit Inside North Vietnam, New York: The New American Library, 1967). 

Họ đề cập đến Xuân Oanh và những vai trò quan trọng mà ông đã đóng không chỉ với tư cách là người hướng dẫn, phiên dịch mà còn là người giúp họ khám phá nền văn hóa và di sản phong phú của Việt Nam.

Trong tác phẩm năm 1988 có tựa đề “Tái hợp: Hồi ký” (Reunion: A Memoir) , Tom Hayden lý giải thêm về cái nhìn của ông về vai trò của Xuân Oanh, không chỉ với tư cách là người hướng dẫn, phát triển mối quan hệ tốt đẹp với phong trào hòa bình và tổ chức phi chính phủ từ các quốc gia khác, mà còn với tư cách là một người có mong muốn “giáo dục đất nước của mình thuận lợi về nước Mỹ.”

Hayden đã học được trong cuộc tranh luận với Xuân Oanh về điểm này rằng mục đích của giáo dục là “để giảm bớt hận thù”, coi đây là tiếp cận căn bản. Phân biệt công dân Mỹ với chính quyền Mỹ là một động lực tích cực đối với dư luận. 

Nhiều nhà ngoại giao, nhà văn hoá người Mỹ đặc biệt mến mộ Đỗ Xuân Oanh

Sau chuyến đi Hà Nội vào cuối mùa xuân năm 1972, Bill Zimmerman nhớ lại Xuân Oanh là “một quan chức có học thức phương Tây và thành thị, thường xuyên đi lại châu Âu và từng là đại sứ lưu động cho…(phong trào) phản chiến”.

Ngay từ năm 1965 đến cuối năm 1972, các nhà hoạt động vì hòa bình đã liên tục đưa những thông tin có lợi mà Đỗ Xuân Oanh đã cung cấp với tư cách là người điều phối. Cách cư xử nhân văn và hòa đồng của ông là vì lợi ích, chủ quyền của một quốc gia quyết tâm phá tan ách thống trị của những quốc gia áp bức.

Dillenger mô tả một số chi tiết của cuộc gặp gỡ hấp dẫn này. Hãy tưởng tượng một người Mỹ tìm kiếm hòa bình cùng Xuân Oanh ngồi trong phòng với Thủ tướng Phạm Văn Đồng, có một cuộc thảo luận mang tính xây dựng và thoải mái với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

“Bạn tôi, Đỗ Xuân Oanh, một nhà thơ và một nhạc sĩ, là thông dịch viên của tôi trong hầu hết các chuyến về quê, v.v. Hôm đó ông là thông dịch viên của tôi. Tôi đang ngồi nói chuyện với Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì bỗng dưng Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện, mỉm cười. Và chúng tôi cùng trò chuyện”, ông Dillenger hồi tưởng.

Trong bài viết có tựa đề: “Đỗ Xuân Oanh, nhà Các mạng Quốc tế, nhà Văn hoá Nhân dân”, bàMerle Razner, đảng viên Đảng Cộng sản Mỹ, một nhà cách mạng Mác-xít thuần khiết đã ca ngợi Đỗ Xuân Oanh là nhà hoạt động đoàn kết vì hoà bình, hiện thân của chủ nghĩa Yêu nước và dân tộc Việt Nam.

Bà Merle Ratnez viết: Xuân Oanh tham gia cách mạng trên nhiều phương diện. Ông tham gia đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc với tư cách là nhạc sĩ, nhà văn, dịch giả, nhà hoạt động đoàn kết vì hòa bình, nhà ngoại giao nhân dân.

Đỗ Xuân Oanh gia nhập Việt Minh, tham gia Cách mạng Tháng Tám và lên Việt Bắc. Đan xen trong suốt cuộc đời của Xuân Oanh là công việc ngoại giao nhân dân. 

Ông đã đảm nhận nhiều vai trò lãnh đạo như người lãnh đạo Hội Việt Mỹ, Ủy ban Hòa bình Việt Nam và nhiều vai trò khác. 

Có một số điều đã khiến Xuân Oanh trở nên đặc biệt trong sứ mệnh này.

Thứ nhất, ông cống hiến hết mình cho nhân dân, cho cách mạng Việt Nam. Ông thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị quốc tế là mặt trận quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa mới chứ không phải là để “tô điểm”.

Thứ haiông thực sự quan tâm tới mọi người và rất biết cách giao tiếp với bạn bè quốc tế. Không giống như một số người, khi gặp chúng tôi Xuân Oanh không bao giờ đọc văn bản hay trích dẫn khẩu hiệu (trừ khi chúng phù hợp). 

Ông luôn giải thích mọi điều bằng thứ ngôn ngữ rõ ràng và dễ hiểu ngay cả khi chúng tôi trao đổi về những lý thuyết hoặc khái niệm phức tạp. Xuân Oanh không bao giờ tìm cách trả lời qua loa hay đơn giản cho những câu hỏi hóc búa. Thay vào đó ông kiên nhẫn tiếp nhận những ý kiến dù là gay gắt nhất và trả lời chúng bằng sự thật và đôi khi hài hước.

Thứ ba, Xuân Oanh rất ghét bệnh quan liêu và không dung thứ cho điều đó trong tổ chức của mình. Ông làm việc cần mẫn và yêu cầu đồng sự cũng phải như vậy, đồng thời ông giúp đỡ và quan tâm đến nhu cầusức khỏe của đồng nghiệp và gia đình. 

Khi cầnông không câu nệ bất cứ việc gì  điều đó tạo nên văn hóa công việc phải được thực thi, bỏ qua mọi thủ tục quan liêu. Đây là lý do vì sao, khi tôi làm việc với họ, Hội Việt Mỹ có thể làm được ngần ấy việc với nguồn lực rất hạn hẹp.

Thứ với đồng nghiệp và bạn bè, Xuân Oanh không ngại tự phê bình. Ông thực hành điều này một cách thân tình nhằm cải thiện công việc chung hơn là thể hiện uy quyền. Điều này đã giúp xây dựngđược lòng tin lẫn nhau và tạo nên tình nghĩa đoàn kết, đùm bọc trong đồng nghiệp ở mức cao.

Cuối cùng, Xuân Oanh hiểu biết sâu sắc không chỉ về Việt Nam mà còn về nước Mỹ và thế giới. Ông hiểu rõ chính trị và văn hóa Mỹ, kể cả âm nhạc. Ông hiểu biết những cách diễn đạt thông tục của Mỹsự hài hước và thẳng thắn mà người Mỹ thường thể hiện. Nhờ đó, ông có thể hiểu được khách quốc tế, lựa chọn cách giao tiếp tốt nhất cũng như giải thích những điều họ cần biết về Việt Nam. Hầu hết bạn bè quốc tế đều yêu quý Xuân Oanh, nhận xét ông là người trung thực, gần gũi và cởi mở”.

Nhạc sĩ Đỗ Xuân Oanh sinh ngày 4/1/1923 tại thị trấn Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Năm 1942, ông bắt đầu con đường cách mạng cùng với nhà thơ Nguyễn Đình Thi. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được phân phụ trách công tác tuyên truyền. Xuân Oanh là một trong hai người Việt Nam đầu tiên thực hiện bản tin tiếng Anh trên Đài Tiếng nói Việt Nam, làm Báo Cứu Quốc ở chiến khu Việt Bắc. Sau đó, ông công tác tại Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị và hòa bình…Ông đã được trao giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007, Huân chương Độc lập hạng ba năm 1998.

Trong sự nghiệp âm nhạc của mình, nhạc sĩ Xuân Oanh đã để lại trong lòng nhiều thế hệ người Việt Nam dấu ấn sâu sắc bằng các tác phẩm: "Quê hương anh bộ đội","Ca mừng chế độ ta tươi đẹp, "Hồ Chí Minh người là muôn ánh sao”, "Ngôi sao thế kỷ”, "Hà Nội ở Lâm Đồng", “Gọi thu”, “Bình minh trên đất nước không bao giờ tắt”, “Hãy kí tên” phỏng theo bài thơ “Trời sẽ trong xanh trở lại” của nhà thơ người Nhật Bản- Umeda Shyozi; hợp xướng “Quê hương”… 

Nhắc tới nhạc sỹ Xuân Oanh, không ai có thể quên được ca khúc “19 tháng Tám” bất hủ của ông. Ca khúc ra đời vào đúng ngày 19/8/1945, giữa không khí sục sôi, tinh thần quật khởi của những người dân đứng lên giành độc lập và sau này đã trở thành một ca khúc sống mãi với thời gian. 

Ca khúc “19 tháng Tám” năm nay đã tròn 65 tuổi, trong những năm tháng chiến tranh giành độc lập dân tộc, ca khúc này đã trở thành nguồn cổ vũ tinh thần mạnh mẽ với những người chiến sĩ khắp mọi miền đất nước. Mỗi năm, đến dịp cả nước tưng bừng kỷ niệm 19/8, ca khúc này lại vang lên trên khắp nẻo đường đất nước… 

Xuân Oanh là người đa tài. Ông không chỉ giỏi về thơ, ca, nhạc, họa, mà còn thông thạo 7 ngoại ngữ. Có thể kể đến các tác phẩm: “Trần trụi giữa bầy sói”, “Hai số phận”, “Nửa đêm về sáng”, “Một lần chưa đủ”, “Vườn Thượng Hải”, “Phía sau tình yêu”...

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của tác giả Lưu Quang Vũ mang sang biểu diễn ở Mỹ, cuốn “Ông cố vấn”, bản dịch tiếng Anh là của nhạc sỹ Xuân Oanh. Ông từng phiên dịch cho nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong những lần tiếp khách quốc tế...

Vũ Ninh(tổng hợp)  

Vũ Ninh

Tag (S):

tin mới cập nhật