Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị đưa việt Nam hội nhập trên tầm cao mới
Thứ năm, 04/09/2025 - 06:48 (GMT+7)
TCVM - Nghị quyết 59 được coi là một dấu mốc quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc đưa hội nhập quốc tế của Việt Nam lên tầm cao mới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc xác định chiến lược đúng đắn nhằm nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngày nay, hội nhập quốc tế không chỉ dừng lại ở hợp tác kinh tế, mà còn mở rộng sang nhiều lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ, môi trường, giáo dục và quản trị toàn cầu. Để đáp ứng yêu cầu đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 59-NQ/TW về chiến lược hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Nghị quyết này được coi là một dấu mốc quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc đưa hội nhập quốc tế của Việt Nam lên tầm cao mới, phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045: trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, có uy tín và ảnh hưởng lớn trong khu vực và thế giới.
Bối cảnh trong nước
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng sau gần 40 năm đổi mới. Từ một quốc gia nghèo nàn, kém phát triển, Việt Nam đã trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình, được đánh giá là một trong những điểm sáng về phát triển năng động ở châu Á. Các thành tựu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, và đặc biệt là hội nhập quốc tế trong ba thập niên qua, đã đưa đất nước lên vị thế mới.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập cũng bộc lộ những hạn chế: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn thấp, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, hạ tầng và thể chế chưa đồng bộ, khả năng thích ứng trước các biến động toàn cầu còn hạn chế. Đòi hỏi cấp thiết là phải có một nghị quyết toàn diện để định hướng và nâng tâm hội nhập quốc tế.
Bối cảnh quốc tế
Thế giới bước vào giai đoạn mới với nhiều biến động sâu sắc: cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, xung đột cục bộ, biến đổi khí hậu, cách mạng công nghiệp 4.0, an ninh phi truyền thống gia tăng, xu hướng bảo hộ mậu dịch nổi lên. Cùng lúc, xu thế hợp tác - liên kết khu vực và toàn câu vần là dòng chảy chủ đạo.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần có một chiến lược hội nhập mới, không chỉ để tận dụng cơ hội mà còn để đối phó hiệu quả với các thách thức, qua đó khẳng định vai trò và vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế.
Hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng
Khác với giai đoạn trước chủ yếu tập trung vào kinh tế, Nghị quyết 59 nhấn mạnh hội nhập phải toàn diện, bao gồm:
Kinh tế: tiếp tục tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển doanh nghiệp trong nước vững mạnh.
Chính trị - ngoại giao: phát huy vai trò trong các cơ chế đa phương, củng cố quan hệ với các đối tác chiến lược, nâng cao uy tín của Việt Nam.
Quốc phòng - an ninh: hội nhập gắn với giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; chủ động tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng, an ninh quốc tế.
Văn hóa - xã hội: quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Khoa học - công nghệ, giáo dục, môi trường: hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, tham gia các sáng kiến toàn cầu về phát triển bền vững, biến đổi khí hậu, kinh tế số và xanh.

Nghị quyết 59 thể hiện quyết tâm của Bộ Chính trị đưa việt Nam hội nhập trên tầm cao mới
Định vị Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu
Nghị quyết yêu cầu Việt Nam phải tham gia chủ động và tích cực vào chuỗi cung ứng toàn cầu, không chỉ là nơi gia công, lắp ráp mà phải từng bước vươn lên nấc thang cao hơn, hình thành các doanh nghiệp, tập đoàn có thương hiệu quốc tế.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập sâu rộng
Một trong những điểm mới là nhấn mạnh xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ song song với mở cửa hội nhập. Điều này giúp đất nước không bị phụ thuộc, đồng thời tận dụng được các lợi ích của toàn cầu hóa.
Đổi mới thể chế và nâng cao năng lực thực thi
Để hội nhập hiệu quả, Nghị quyết xác định cần tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, bảo đảm sự phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, nhà ngoại giao, doanh nhân cũng phải được nâng lên để đáp ứng yêu cầu mới.
Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc
Dù mở cửa sâu rộng, Nghị quyết vẫn khẳng định nguyên tắc cao nhất: hội nhập để phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo đảm an ninh con người.
Khẳng định tầm nhìn chiến lược của Đảng
Nghị quyết 59 cho thấy sự nhạy bén của Đảng trong việc nắm bắt xu thế thời đại, định hình chiến lược phát triển đất nước trong bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng. Đây là cơ sở quan trọng để đưa Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới.
Đưa Việt Nam trở thành đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm
Thông qua thực hiện Nghị quyết, Việt Nam không chỉ nâng cao vị thế kinh tế mà còn khẳng định vai trò là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào các sáng kiến toàn cầu về hòa bình, an ninh, phát triển bền vững.
Tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội
Hội nhập sâu rộng mở ra cơ hội lớn về thị trường, công nghệ, vốn, tri thức. Nếu biết tận dụng, Việt Nam có thể bứt phá, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân, và thực hiện mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển.
Củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại
Thông qua hợp tác quốc tế, Việt Nam có điều kiện tăng cường tiềm lực quốc phòng, nâng cao khả năng bảo vệ Tổ quốc, đồng thời củng cố quan hệ với các đối tác lớn, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.
Thách thức trong quá trình thực hiện Nghị quyết
Sức ép cạnh tranh gay gắt
Khi tham gia sâu vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các nền kinh tế mạnh hơn, doanh nghiệp trong nước dễ bị thua thiệt.
Rủi ro phụ thuộc
Nếu không xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ, Việt Nam có thể bị lệ thuộc vào các thị trường lớn hoặc chuỗi cung ứng toàn cầu.
Biến động khó lường của tình hình thế giới
Căng thẳng địa - chính trị, xung đột, biến đổi khí hậu, dịch bệnh... có thể tác động tiêu cực đến quá trình hội nhập.
Năng lực nội tại còn hạn chế
Công nghệ, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thua kém nhiều nước. Đây là rào cản lớn cần khắc phục.
Giải pháp để đưa hội nhập lên tầm cao mới
Để thực hiện thành công Nghị quyết 59, cần đồng bộ nhiều giải pháp:
Hoàn thiện thể chế hội nhập: rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật để phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu phát triển trong nước.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo, quản lý, chuyên gia trong các lĩnh vực đối ngoại, thương mại, công nghệ, quốc phòng.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: khuyến khích đổi mới sáng tạo, đầu tư nghiên cứu - phát triển, xây dựng thương hiệu quốc tế.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ: phát triển công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, giảm phụ thuộc vào một số thị trường.
Đẩy mạnh ngoại giao đa phương: tích cực tham gia, đóng góp sáng kiến tại Liên Hợp Quốc, ASEAN, APEC, WTO, COP... để khẳng định vai trò dẫn dắt.
Kết hợp chặt chẽ giữa hội nhập và bảo vệ an ninh quốc gia: phát triển quan hệ đối tác chiến lược, đồng thời tăng cường tiềm lực quốc phòng.
Phát huy sức mạnh toàn dân: nâng cao nhận thức của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp về ý nghĩa, vai trò của hội nhập; huy động sự tham gia của mọi tầng lớp xã hội.
Triển vọng đến năm 2030, tầm nhìn 2045
Với Nghị quyết 59, Việt Nam đặt ra mục tiêu:
Đến năm 2030: trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực.
Đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao, có vai trò tích cực trong việc định hình luật chơi toàn cầu, có ảnh hưởng lớn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Triển vọng này hoàn toàn khả thi nếu Việt Nam thực hiện quyết liệt các giải pháp, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ, hợp tác của cộng đồng quốc tế.
Tiến sĩ Nguyễn Thắng Cảnh