Hợp tác giáo dục Việt-Mỹ: Trụ cột chiến lược trong kỷ nguyên mới
Thứ năm, 20/11/2025 - 10:46 (GMT+7)
TCVM - Năm 2025 đánh dấu hai cột mốc quan trọng trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ: 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 50 năm kết thúc chiến tranh. Trong suốt ba thập kỷ đó, giáo dục nổi lên như một trong những lĩnh vực hợp tác tiên phong và quan trọng nhất, là cầu nối kết nối chính phủ và người dân hai nước.
Từ những nỗ lực ban đầu giúp vượt qua quá khứ, giải quyết di sản chiến tranh, giáo dục đã góp phần không ngừng nghỉ vào việc bình thường hóa và phát triển quan hệ song phương. Giờ đây, khi hai nước đã nâng tầm quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo được xác định là một trụ cột trọng yếu và là động lực chiến lược cho tương lai.
Nền móng từ đối thoại chính sách
Một điều đặc biệt là các hoạt động đối thoại và nghiên cứu chính sách đã diễn ra ngay cả trước khi hai nước bình thường hóa quan hệ vào năm 1995. Từ năm 1988, các giáo sư từ Viện Phát triển quốc tế Harvard (HIID) đã đến Việt Nam tìm hiểu công cuộc Đổi mới , tập trung vào các vấn đề chuyển đổi từ kinh tế chỉ huy sang mô hình kinh tế thị trường.
Những học giả và sinh viên Việt Nam đầu tiên sau chiến tranh đã nhận học bổng sang nghiên cứu tại viện này. Các giáo sư như Dwight Perkins, David Dapice và Thomas Vallely đã có nhiều tiếp xúc và thảo luận với các lãnh đạo Việt Nam, trong đó có các cuộc gặp gỡ với Tổng bí thư Đỗ Mười và Ủy viên Bộ Chính trị Đào Duy Tùng. Những nghiên cứu ban đầu về chính sách lương thực hay cải cách kinh tế đã trở thành tài liệu tham khảo quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách Đổi mới.

Giáo sư Dwight Perkins, Giáo sư David Dapice trong một buổi ăn tối với Tiến sĩ Lưu Bích Hồ, cố viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và ông Lê Đức Thúy, thành viên trong đoàn tham quan khảo sát về kinh tế thị trường ở Đông Á năm 1991.
Giáo sư kinh tế Dwight Perkins, người đã dẫn dắt các hoạt động nghiên cứu của Harvard trong giai đoạn này, chia sẻ: "Giai đoạn từ 1989-2000, HIID tiếp xúc nhiều với các lãnh đạo Việt Nam... Ông Nguyễn Cơ Thạch là khách mời của chúng tôi tại HIID vào tháng 1-1989, trong chương trình nghiên cứu các khái niệm cơ bản về kinh tế thị trường của Samuelson. Sau chuyến thăm này, Chính phủ Việt Nam đồng ý đề xuất của chúng tôi giúp Việt Nam nghiên cứu cách chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường. Trong những năm đầu tiên, tôi, Thomas Vallely và giáo sư David Dapice đã đi thăm và tìm hiểu nhiều nhà máy và vùng nông thôn Việt Nam, sau đó báo cáo các kết quả nghiên cứu tại các cuộc họp hay buổi thảo luận với phía Việt Nam. Bản thân tôi gặp Tổng bí thư Đỗ Mười hai lần cùng với David Dapice và Tommy. Nhiều lần khác, chúng tôi đã gặp Ủy viên Bộ Chính trị Đào Duy Tùng và các thành viên Hội đồng Bộ trưởng".
Những nỗ lực trao đổi ban đầu này đã phát triển thành Chương trình đối thoại chính sách cấp cao Việt Nam (VELP) thường niên, bắt đầu từ năm 2008 tại Trường Kennedy, Harvard. Chương trình này, và đội ngũ nghiên cứu, sau đó đã chuyển sang Trung tâm Đông Á Weatherhead.
Dòng chảy đối thoại chính sách này tiếp tục được khẳng định sẽ là một trụ cột trong tương lai. Tại Đối thoại chính sách với Đại học Columbia vào tháng 11/2025, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Minh Hằng đã bày tỏ tin tưởng sáng kiến Chương trình Lãnh đạo Việt Nam (VLP) sẽ tiếp nối thành công của VELP và khẳng định ủng hộ VLP sớm được triển khai. Điều này cho thấy cam kết duy trì một kênh đối thoại học thuật và chính sách cấp cao, liên tục thích ứng với các giai đoạn phát triển mới của quan hệ song phương.
Các Chương trình biểu tượng
Song song với đối thoại chính sách, các chương trình trao đổi và xây dựng thể chế giáo dục đã đóng vai trò then chốt. Hai chương trình tiên phong là Fulbright Students Program (1992), cấp học bổng thạc sĩ cho sinh viên Việt Nam, và Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (FETP) (1994), một liên kết đào tạo về chính sách công giữa Harvard Kennedy và Đại học Kinh tế TP.HCM. Những dự án này đã góp phần tạo ra một thế hệ lãnh đạo am hiểu kinh tế thị trường cho thời kỳ Đổi mới. Một cột mốc quan trọng khác là Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF), được Tổng thống Bill Clinton công bố năm 2000. Hoạt động từ 2003-2018, VEF đã đào tạo hơn 600 tiến sĩ và thạc sĩ, chủ yếu trong các ngành STEM, tạo ra một mạng lưới các nhà khoa học và kỹ sư công nghệ hàng đầu.
Sáng kiến hợp tác giáo dục sống động và mang tính bước ngoặt nhất chính là Đại học Fulbright Việt Nam (FUV), thành lập năm 2016. Với tư cách là trường đại học độc lập, phi lợi nhuận, FUV (với tiền thân là FETP) được kỳ vọng sẽ trở thành một hình mẫu giáo dục đại học nghiên cứu hàng đầu tại Việt Nam. Các chương trình này đã thúc đẩy một làn sóng du học mạnh mẽ. Tính đến năm 2025, theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, có khoảng 30.000 sinh viên, học sinh Việt Nam đang học tập tại Hoa Kỳ (đứng thứ 5 trong số các nước), và có khoảng 50 chương trình liên kết đào tạo đang hoạt động giữa các cơ sở giáo dục đại học hai nước. Giáo sư Thomas Vallely, người sáng lập Đại học Fulbright cũng kỳ vọng trong vòng 15-20 năm nữa, Việt Nam sẽ có một trường đại học nghiên cứu nằm trong top 20 của thế giới.

Lễ Tốt nghiệp cử nhân của sinh viên trường Đại học Fullbright Việt Nam.
Từ đáp ứng thị trường đến kiến tạo động lực tăng trưởng mới
Nếu giai đoạn đầu (sau 1995 và Hiệp định Thương mại 2000) hợp tác giáo dục tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu nhân lực cho nền kinh tế thị trường, thì giai đoạn hiện tại đang chứng kiến một sự chuyển dịch chiến lược rõ rệt. Định hướng hợp tác giáo dục hiện nay không chỉ là "đáp ứng" mà đã trở thành "kiến tạo". Tại Đối thoại chính sách tháng 11/2025, các chuyên gia và học giả đã đánh giá cao định hướng của Việt Nam trong việc lấy khoa học công nghệ, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số làm động lực tăng trưởng chính, và coi phát triển nguồn nhân lực là yếu" "tố then chốt.
Điều này được cụ thể hóa trong đề nghị của Thủ tướng Phạm Minh Chính (3/2025) với các trường đại học Hoa Kỳ: chủ động hợp tác đào tạo các ngành kỹ thuật cao như AI, bán dẫn, công nghệ sinh học, để đáp ứng trực tiếp yêu cầu từ các tập đoàn lớn như Intel, NVIDIA, Apple đang đầu tư và mở rộng hệ sinh thái tại Việt Nam. Vai trò năng động của khu vực tư nhân Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ cũng được hoan nghênh tại Đối thoại tháng 11/2025, cho thấy sự song hành giữa nhà nước và doanh nghiệp trong định hướng này.

Tổng bí thư Tô Lâm và Giáo sư Liên Hằng tại Diễn đàn Lãnh đạo Thế giới - Đại học Columbia, Mỹ.
Trong bối cảnh thế giới nhiều biến động , cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều nhận thức rõ, hợp tác nghiên cứu về công nghệ và khoa học giữa các trường đại học hàng đầu chính là lĩnh vực đảm bảo lợi ích an ninh và kinh tế cho cả hai nước trong những năm tới. Như Thứ trưởng Nguyễn Minh Hằng khẳng định Việt Nam coi trọng quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện và các chương trình trao đổi giáo dục không chỉ thúc đẩy tri thức mà còn "góp phần thu hẹp khác biệt về văn hóa và bảo đảm nhân dân hai nước đều hưởng lợi từ sự tiến bộ chung". Từ một cầu nối hàn gắn quá khứ, giáo dục đã thực sự trở thành động lực chiến lược, then chốt để kiến tạo tương lai chung của hai quốc gia.