LTS: Những ngày gần đây, các chính sách áp thuế của tổng thống D. Trump đã tạo ra những chấn động trên khắp thế giới trong đó có Việt Nam với mức thuế dành cho hàng hóa Việt Nam lên đến 46%. Con số 46% trở thành nỗi ám ảnh không chỉ với cách doanh nghiệp Việt mà còn làm đảo lộn cuộc sống của hàng triệu nhân công lao động. Tình thế này buộc chính phủ Việt Nam vào cuộc với những xử lý sắc bén và kịp thời. Cuộc điện đàm của Tổng bí thư Tô Lâm với người đứng đầu nước Mỹ, tổng thống D. Trump, với một thương lượng được đưa ra là giảm mức thuế cho hàng hóa của Mỹ vào Việt Nam là 0% và đổi lại một mức áp thuế tương đương từ Mỹ quả là một đề nghị đầy bất ngờ. Trong tình thế rất nhiều quốc gia lập tức đáp trả bằng cách áp mức thuế quan tương đương như Trung Quốc, Canada, Mexico, hay các nước châu Âu, cách làm của Việt Nam thực sự sẽ là một nước đi khôn ngoan trong bối cảnh toàn cầu gắn liền với thực tiễn của Việt Nam. Chính quyền Mỹ và cá nhân tổng thống D. Trump là những người hiểu rõ hơn ai hết thực tế và tiềm năng của họ. Với mục tiêu đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại (MAGA), ông Trump tự tin khi hiểu rằng họ là người đang cầm lái. Ông kiên định với quan điểm: Tự do thương mại cần phải dựa trên sự công bằng và hợp tác qua lại. Trong tình hình đó, chính phủ Việt Nam đã không bước theo dòng chảy ồ ạt của cuộc chiến thương mại mà chọn cách đi riêng, đó là thương lượng để đạt được lợi ích tối đa cho quốc gia.
Trong tình hình có rất nhiều biến động như thế, bài viết này hướng tới một vấn đề có vẻ nằm ở ngoại biên của những cạnh tranh thương mại, song thực ra lại có ảnh hưởng rất lớn đến cả hai quốc gia: Vấn đề giáo dục.
 |
Giáo dục: nguồn đầu tư thương mại với lợi ích lâu dài và bền vững (Ảnh minh họa)
|
Giáo dục: nguồn đầu tư thương mại với lợi ích lâu dài và bền vững
Trước hết, không thể phủ nhận, giáo dục chính là một nguồn đầu tư thương mại với lợi ích khổng lồ. Giáo dục luôn được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, không chỉ mang lại những giá trị trực tiếp từ việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục còn đóng vai trò như một nguồn đầu tư thương mại có lợi ích lâu dài và bền vững. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, giáo dục trở thành một lĩnh vực không thể thiếu trong chiến lược đầu tư và hợp tác quốc tế, trở thành một lĩnh vực thương mại quan trọng không chỉ đối với các quốc gia phát triển mà còn với cả các nền kinh tế mới nổi. Các trường đại học và cơ sở giáo dục tại các quốc gia như Mỹ, Anh, Australia, và Canada thu hút hàng triệu sinh viên quốc tế, và việc này đã trở thành một ngành công nghiệp với giá trị hàng tỷ đô la mỗi năm. Đây là một minh chứng rõ ràng cho vai trò của giáo dục như một mặt hàng thương mại, nơi các dịch vụ giáo dục không chỉ giúp nâng cao tri thức mà còn tạo ra nguồn thu từ học phí, dịch vụ sinh viên, và các chương trình trao đổi học thuật.
Giáo dục đã trở thành một "ngành công nghiệp xuất khẩu" cho các quốc gia có nền giáo dục chất lượng. Các nước như Hoa Kỳ và Anh kiếm được hàng tỷ đô la từ sinh viên quốc tế, không chỉ từ học phí mà còn từ các dịch vụ ăn ở, du lịch, và các hoạt động kinh tế khác liên quan đến sự hiện diện của sinh viên quốc tế. Vì vậy, đầu tư vào giáo dục không chỉ là việc tạo ra một thế hệ lao động có tay nghề mà còn là một phương tiện để tạo dựng nguồn thu dài hạn và ổn định cho nền kinh tế quốc gia.
Thêm nữa, giáo dục còn là một yếu tố then chốt trong sự phát triển con người và nền kinh tế. Khi các quốc gia đầu tư vào giáo dục, họ không chỉ đang nâng cao trình độ tri thức của lực lượng lao động, mà còn chuẩn bị cho sự phát triển lâu dài thông qua việc tạo ra những cá nhân có kỹ năng và năng lực đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế toàn cầu. Các quốc gia với lực lượng lao động có trình độ học vấn cao sẽ có khả năng thu hút các nhà đầu tư và doanh nghiệp quốc tế, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững. Ngoài ra, giáo dục còn đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu các vấn đề xã hội như nghèo đói và bất bình đẳng. Các nghiên cứu cho thấy rằng khi người dân được tiếp cận với giáo dục chất lượng, họ sẽ có cơ hội cải thiện cuộc sống, góp phần vào việc phát triển nền kinh tế. Khi đó, giáo dục không chỉ là một phương tiện để phát triển cá nhân mà còn giúp xã hội xây dựng các giá trị cốt lõi về công bằng và sự thịnh vượng.
Đối với sự phát triển kinh tế, giáo dục không chỉ mang lại lợi ích cho các quốc gia mà còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế toàn cầu. Trong một thế giới ngày càng kết nối và hội nhập, các quốc gia không thể đứng ngoài những xu hướng toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đầu tư vào giáo dục, mỗi quốc gia không chỉ chuẩn bị cho thế hệ trẻ của mình tham gia vào nền kinh tế tri thức toàn cầu, nơi sự sáng tạo, đổi mới và khả năng giải quyết vấn đề là yếu tố quyết định thành công mà còn tạo cơ hội phát triển bền vững thông qua các mối quan hệ hợp tác quốc tế. Ở đây, các chương trình trao đổi học thuật, nghiên cứu và sáng tạo hợp tác không chỉ tạo ra những kết quả tích cực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, mà còn giúp xây dựng các mạng lưới kết nối kinh tế và thương mại lâu dài.
Nhìn từ góc độ khác, một trong những lý do khiến giáo dục trở thành một lĩnh vực đầu tư thương mại quan trọng là khả năng thu hút đầu tư. Các quốc gia như Mỹ khi sở hữu hệ thống giáo dục chất lượng cao có thể thu hút không chỉ sinh viên quốc tế mà còn cả các nhà đầu tư và doanh nghiệp quốc tế. Hệ thống giáo dục tiên tiến, các nghiên cứu sáng tạo, và các chương trình đào tạo kỹ năng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút các ngành công nghiệp công nghệ cao, tài chính và y tế. Mặc dù việc đầu tư vào giáo dục của Việt Nam sẽ giúp giảm bớt sự thiếu hụt lao động có tay nghề cao, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực của mình nhằm tăng khả năng cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường toàn cầu, song rõ ràng, giáo dục không chỉ có lợi ích trong ngắn hạn mà còn có tác động lâu dài đối với sự phát triển của xã hội và cả nền kinh tế Hoa kỳ. Những thế hệ học sinh, sinh viên hiện tại sẽ trở thành những nhà lãnh đạo, nhà khoa học, và nhà sáng chế trong tương lai. Bằng cách đầu tư vào giáo dục ngày hôm nay, Việt Nam đang chuẩn bị cho một tương lai bền vững hơn, nơi sự sáng tạo, đổi mới và trí thức sẽ dẫn dắt quá trình phát triển, song cũng chính ở đây, nhìn từ góc độ tuyên truyền và ảnh hưởng, những thế hệ này đang lan tỏa các giá trị Mỹ.
Như thế, trong hợp tác song phương, hai bên cùng có lợi, thì giáo dục, cụ thể là số lượng sinh viên Việt Nam đang theo học tại Mỹ với một khoản đầu tư khổng lồ đổ vào nước Mỹ sẽ là một sự hợp tác có khả năng “cân bằng” cán cân thương mại khi nói đến sự hợp tác hai chiều toàn diện giữa Việt Nam và Mỹ. Trong những thương lượng về thương mại đang thu hút rất nhiều sự chú ý của dư luận gần đây, quả thực chúng ta đang lãng quên một lĩnh vực chiếm một tỉ trọng rất lớn đó là giáo dục.
Chính người Mỹ với Phái đoàn Ngoại giao Hoa Kỳ tại Hà Nội, ngày 21 tháng 11 năm 2024 đã tự hào nhấn mạnh rằng, giáo dục chính là một trong những nỗ lực quan trọng không ngừng của cả hai phía trong việc mở rộng hợp tác song phương. Đại sứ Hoa Kỳ Marc Knapper nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ hợp tác này: “Khi sinh viên và học giả quốc tế đến Hoa Kỳ – và khi người Mỹ ra nước ngoài học tập - họ mang theo tài năng, góc nhìn và bản sắc văn hóa đến với cộng đồng mới của mình. Và khi họ hợp tác với các đồng nghiệp để thúc đẩy nghiên cứu và tri thức, họ khơi dậy sự đổi mới và xây dựng những mối liên kết vượt qua biên giới có thể kéo dài suốt đời.”
Theo những thống kê mới nhất, Hoa Kỳ tiếp tục là điểm đến hàng đầu thế giới cho sinh viên quốc tế. Theo Báo cáo Open Doors năm 2024, được Viện Giáo dục Quốc tế công bố ngày 18 tháng 11. Số lượng sinh viên Việt Nam đang học tại các trường đại học và cao đẳng Hoa Kỳ tiếp tục tăng, đạt 22.066 sinh viên trong năm học 2023 – 2024. Con số này tăng lên hơn 31.000 nếu tính tất cả các bậc học. Việt Nam hiện là quốc gia ASEAN có số lượng sinh viên du học tại Hoa Kỳ nhiều nhất. Trong đó, gần 50% sinh viên Việt Nam tại Hoa Kỳ lựa chọn theo học các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), góp phần vào mục tiêu của Việt Nam trong việc tăng cường phát triển nguồn nhân lực trong các ngành công nghệ cao.
 |
Hệ thống giáo dục của Mỹ không chỉ thu hút sinh viên từ khắp nơi trên thế giới mà còn là một công cụ để truyền bá giá trị tự do, sáng tạo và đổi mới (Ảnh minh họa) |
Như thế, tổng chi tiêu hàng năm của du học sinh Việt Nam tại Mỹ ước tính khoảng 800 triệu đến hơn 1 tỷ USD/năm – một con số KHÔNG NHỎ đối với cán cân dịch vụ giáo dục Mỹ. Nếu nhìn từ góc độ thương mại, đây rõ ràng sẽ là nguồn tiền không nhỏ đầu tư vào Mỹ. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken đã nhấn mạnh tầm quan trọng của đóng góp này khi ông nói: “Các chương trình trao đổi quốc tế xây dựng nên những mối liên kết mới, giúp chúng ta hợp tác trong những vấn đề mang tính sống còn.
Giáo dục và sức mạnh mềm của nước Mỹ
Trong thế kỷ XXI, sức mạnh mềm (soft power) của các quốc gia đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc duy trì ảnh hưởng toàn cầu. Giáo dục là một yếu tố chủ chốt trong chiến lược sức mạnh mềm của nước Mỹ. Thông qua hệ thống giáo dục phát triển mạnh mẽ và các chương trình trao đổi, Mỹ đã tạo ra một mạng lưới rộng lớn với các cá nhân có ảnh hưởng, những người mang trong mình những giá trị, tư tưởng và phong cách sống Mỹ. Hệ thống giáo dục của Mỹ không chỉ thu hút sinh viên từ khắp nơi trên thế giới mà còn là một công cụ để truyền bá các giá trị tự do, sáng tạo và đổi mới.
Giáo dục Mỹ không chỉ đơn thuần là việc đào tạo nhân lực cho Việt Nam mà còn là một trong những công cụ quan trọng nhất để Mỹ duy trì và phát huy sức mạnh mềm của họ. Hệ thống giáo dục của Mỹ, đặc biệt là các trường đại học và viện nghiên cứu hàng đầu như Harvard, Stanford, và MIT, đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển các lĩnh vực như khoa học, công nghệ, kinh tế, và nghệ thuật. Các trường đại học này không chỉ là nơi đào tạo mà còn là những trung tâm nghiên cứu quốc tế, thu hút những tài năng hàng đầu từ khắp nơi trên thế giới. Thông qua những chương trình giáo dục, Mỹ không chỉ thu hút sinh viên quốc tế mà còn giúp quảng bá các giá trị cốt lõi của mình, bao gồm tự do học thuật, tư duy phản biện và sáng tạo.
Nhìn rộng hơn, một trong những lý do chính khiến Mỹ duy trì vị thế toàn cầu trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ chính là khả năng thu hút nhân tài quốc tế. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao Mỹ, có hơn 1 triệu sinh viên quốc tế theo học tại các trường đại học và cao đẳng của Mỹ. Những sinh viên này không chỉ học hỏi kiến thức mà còn trở thành những "đại sứ" của văn hóa Mỹ khi trở về đất nước của mình. Chính vì vậy, việc thu hút nhân tài không chỉ giúp Mỹ duy trì vị thế trong các lĩnh vực trí thức mà còn giúp xây dựng các mối quan hệ ngoại giao vững chắc.
Như thế, giáo dục Mỹ không chỉ dừng lại ở việc đào tạo chuyên môn mà còn là một phương tiện để quảng bá các giá trị văn hóa và xã hội đặc trưng của quốc gia này. Tự do học thuật, tư duy phản biện và khả năng sáng tạo là những yếu tố cốt lõi trong giáo dục Mỹ, và đây là những giá trị mà nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam trân trọng. Những giá trị này không chỉ được truyền đạt qua các chương trình học mà còn thông qua những hoạt động nghiên cứu, trao đổi văn hóa và các hoạt động ngoại khóa tại các trường đại học. Ảnh hưởng này còn được ghi nhận rất lâu dài thông qua cách mà giáo dục Mỹ lan tỏa ảnh hưởng nhờ mạng lưới cựu du học sinh. Những sinh viên du học, sau khi hoàn thành chương trình, họ mang theo những kiến thức và giá trị đã học được từ Mỹ về quê hương. Họ trở thành những người dẫn dắt và đóng góp vào sự phát triển của các quốc gia của họ, đồng thời vẫn giữ một mối liên hệ chặt chẽ với nền giáo dục và văn hóa Mỹ.
 |
Hiện tại với những thỏa thuận song phương phát triển thành một quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, những đóng góp của người Việt không chỉ thể hiện trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các lĩnh vực khoa học, y tế, giáo dục và văn hóa. Một số lượng lớn du học sinh Việt Nam tại Mỹ với rất nhiều vai trò và điểm ưu việt thực sự sẽ tạo nên một sức mạnh mềm vô giá cho nước Mỹ. (Ảnh minh họa)
|
Những đóng góp của Việt Nam cho sự thịnh vượng Hoa Kỳ
Trong những ngày gần đây, sự ồn ào về việc áp thuế quan của Việt Nam cho hàng hóa của Mỹ là 90% đã tạo ra khá nhiều bất lợi trong những đàm phán của chính phủ Việt Nam với Mỹ. Dù có nhiều căn cứ để chỉ ra rằng con số này hoàn toàn là những “lập luận mang tính biểu tượng” và việc khẳng định Việt Nam đang áp thuế quan 90% đối với hàng hóa Hoa Kỳ “là một cách diễn giải thiếu chính xác” thì chúng ta vẫn đang rơi vào thế bất lợi. Có thể thấy, con số 90% - nếu có ý nghĩa thực tế - dường như được hình thành bằng cách cộng gộp nhiều khoản thuế và chi phí mà một số loại hàng hóa nhập khẩu đặc biệt (như rượu, thực phẩm cao cấp…) phải gánh chịu bao gồm: Thuế nhập khẩu (MFN); Thuế tiêu thụ đặc biệt (tính theo giá bán, thường cao hơn giá nhập khẩu); Thuế giá trị gia tăng (VAT) và một số chi phí hành chính liên quan đến kiểm định chất lượng, đăng ký lưu hành, thủ tục hải quan… Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ cần nhiều hơn sự chính xác và đối thoại, nhất là khi quan hệ thương mại giữa hai nước đã đạt đến cấp độ đối tác chiến lược toàn diện.
Trong bối cảnh này, Việt Nam một mặt cần cách tiếp cận dựa trên dữ liệu đáng tin cậy, đánh giá khách quan và tinh thần đối thoại là nền tảng để xử lý khác biệt và bất đồng, mặt khác chúng ta cũng cần chỉ ra những “hoạt động thương mại” khác mà Việt Nam đang từng bước nỗ lực “cân bằng” cán cân thương mại giữa hai quốc gia. Mặc dù được coi là ngoại biên của những căng thẳng thương mại, song rõ ràng chính phủ cần phải có một sự thống kê chính xác về những đóng góp của Việt Nam về giáo dục trong mối quan hệ song phương Mỹ - Việt.
Lịch sử nhiều thăng trầm giữa hai dân tộc buộc Việt Nam phải có một cách tiếp cận riêng. Hiện tại với những thỏa thuận song phương phát triển thành một quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, những đóng góp của người Việt không chỉ thể hiện trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các lĩnh vực khoa học, y tế, giáo dục và văn hóa. Một số lượng lớn du học sinh Việt Nam tại Mỹ với rất nhiều vai trò và điểm ưu việt thực sự sẽ tạo nên một sức mạnh mềm vô giá cho nước Mỹ.
Giữa lúc quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ đang trải qua những biến động lớn, mặc dù vấn đề chủ yếu được giải quyết ở cấp chính phủ và các tổ chức thương mại quốc tế, nhưng rõ ràng cũng cần nhận thức rằng lực lượng du học sinh Việt Nam tại Mỹ cũng là một tiếng nói, một “lực lượng” có thể đóng góp vào việc làm dịu đi những căng thẳng này thông qua các kênh ngoại giao nhân dân, sự ảnh hưởng trong cộng đồng, và mối quan hệ giữa hai quốc gia.
Bên cạnh những con số ấn tượng về khoản tiền mà các gia đình Việt Nam tự chi trả (từ nhiều ngành nghề khác nhau), đem lại nguồn đầu tư khá lớn cho Mỹ, cộng đồng du học sinh Việt Nam cũng sẽ có những anh hưởng nhất định đến chính trị và kinh tế Mỹ. Họ chính là cầu nối văn hóa và ngoại giao. Một trong những vai trò quan trọng mà du học sinh Việt Nam có thể đóng góp là làm cầu nối văn hóa giữa hai quốc gia. Mặc dù không thể thay đổi trực tiếp các chính sách thuế quan hay thương mại, du học sinh giúp gia tăng sự hiểu biết giữa các dân tộc, làm giảm đi những hiểu lầm và căng thẳng. Mỹ là một quốc gia đa văn hóa và có sự hiện diện mạnh mẽ của sinh viên quốc tế, trong đó có cộng đồng du học sinh Việt Nam. Những sinh viên này, thông qua quá trình học tập và giao lưu văn hóa, sẽ mang lại một hình ảnh tích cực về đất nước Việt Nam, từ đó có thể góp phần cải thiện mối quan hệ giữa hai quốc gia. Nếu ngoại giao nhân dân (people-to-people diplomacy) được xác định là một chiến lược quan trọng trong mối quan hệ giữa hai nước, thì du học sinh - những người mang trong mình văn hóa, ngôn ngữ và giá trị của quốc gia, có thể thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc. Khi mối quan hệ thương mại trở nên căng thẳng, những hoạt động giao lưu văn hóa của du học sinh có thể sẽ là tác nhân góp phần giảm thiểu phần nào những căng thẳng này, đồng thời tạo dựng một nền tảng vững chắc cho mối quan hệ đối tác lâu dài.
 |
Khi mối quan hệ thương mại trở nên căng thẳng, những hoạt động giao lưu văn hóa của du học sinh có thể sẽ là tác nhân góp phần giảm thiểu phần nào những căng thẳng này, đồng thời tạo dựng một nền tảng vững chắc cho mối quan hệ đối tác lâu dài (Ảnh minh họa) |
Du học sinh Việt Nam, sau khi hoàn thành học tập tại Mỹ, sẽ trở thành một phần của cộng đồng chính trị và kinh tế Mỹ. Mặc dù họ không trực tiếp tham gia vào các quyết định thương mại ở hiện tại, song có thể có ảnh hưởng gián tiếp thông qua nhiều kênh khác nhau. Các du học sinh Việt Nam, đặc biệt là trong những ngành học như kinh tế, chính trị, và công nghệ, có thể trở thành những lãnh đạo tương lai trong các lĩnh vực quan trọng. Những người này, khi đạt được thành công trong nghề nghiệp, có thể đóng góp vào các quyết định chính trị và kinh tế liên quan đến Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp và tham gia vào các ngành công nghiệp của Mỹ, du học sinh Việt Nam có thể giúp gia tăng sự hợp tác giữa hai quốc gia trong các lĩnh vực như công nghệ, giáo dục, y tế và thương mại. Những đóng góp này có thể giúp thay đổi cách thức mà Mỹ nhìn nhận Việt Nam, từ đó tạo ra một môi trường thuận lợi cho các cuộc thương lượng trong tương lai, gia tăng các cơ hội hợp tác và thúc đẩy mối quan hệ thương mại giữa hai quốc gia.
Thêm nữa, ngoài những khoản đầu từ trực tiếp vào giáo dục Mỹ và những tác động gián tiếp trong lĩnh vực ngoại giao và văn hóa, du học sinh Việt Nam cũng có thể đóng góp vào sự phát triển kinh tế của Mỹ thông qua các ngành nghề khác nhau, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ, y tế, và khởi nghiệp. Các du học sinh, khi hoàn thành chương trình học, có thể quay lại Việt Nam và tham gia vào việc xây dựng các dự án phát triển kinh tế, hoặc họ có thể duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài với Mỹ trong các lĩnh vực công nghệ và đầu tư. Một mối quan hệ bền vững giữa Việt Nam và Mỹ có thể là một yếu tố quan trọng tạo ra các cơ hội hợp tác kinh tế và đầu tư, giúp Mỹ nhận ra tầm quan trọng của Việt Nam trong các chuỗi cung ứng toàn cầu, từ đó thúc đẩy các hoạt động thương mại.
Mặt khác, nếu so sánh với du học sinh Trung Quốc tại Mỹ, chúng ta cũng có một số lợi thế. Chẳng hạn, mặc dù về số lượng, du học sinh Trung Quốc là đông nhất thế giới, chiếm khoảng 300.000 người tại Mỹ (2023), tuy nhiên số lượng đang giảm dần do căng thẳng chính trị và hạn chế visa. Trong khi đó, sinh viên Việt Nam được nhìn nhận tích cực hơn, không bị nghi ngờ là "công cụ của nhà nước" hay "rủi ro an ninh công nghệ" như sinh viên Trung Quốc. Về thái độ và hình ảnh, người Việt Nam được đánh giá là chăm chỉ, ít gây tranh cãi, hòa nhập tốt trong môi trường đại học Mỹ, không bị FBI để mắt như sinh viên khoa học - công nghệ từ Trung Quốc (vì nghi vấn gián điệp công nghiệp). Mỹ coi sinh viên Việt Nam là đối tượng thân thiện, có tiềm năng lớn trong “giao lưu nhân dân” (people-to-people diplomacy).
Như thế, mặc dù lực lượng du học sinh Việt Nam tại Mỹ không thể trực tiếp thay đổi các quyết định thương mại hay thuế quan mà Mỹ áp đặt lên Việt Nam. Tuy nhiên, họ có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc làm dịu đi những căng thẳng này thông qua các kênh ngoại giao nhân dân, ảnh hưởng trong các cộng đồng chính trị và kinh tế, và sự tham gia vào các tổ chức vận động chính sách. Nền giáo dục Mỹ và lực lượng du học sinh Việt Nam sẽ trở thành cầu nối văn hóa quan trọng, góp phần xây dựng một môi trường thuận lợi cho các cuộc thương lượng lâu dài, qua đó góp phần giảm bớt căng thẳng thương mại giữa hai quốc gia và thúc đẩy một mối quan hệ hợp tác bền vững trong tương lai.