Lương tri và phẩm giá không thể bị lãng quên
Chủ nhật, 10/08/2025 - 06:54 (GMT+7)
TCVM - "Chúng tôi - những nạn nhân chất độc da cam - là những người nghèo nhất trong những người nghèo, đau khổ nhất trong những người đau khổ. Chúng tôi cần sự quan tâm, chia sẻ từ cộng đồng trong nước và quốc tế để xoa dịu nỗi đau, để có thêm niềm tin sống tiếp những ngày còn lại", chị Vương Thị Quyên chia sẻ.
Nỗi đau nửa thế kỷ chưa nguôi
Hơn 50 năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, thảm họa Agent Orange vẫn là nỗi đau chưa lành.
Dưới chiến dịch Ranch Hand (1961–1971), quân đội Mỹ đã rải gần 19 triệu gallon (≈80 triệu lít) hóa chất diệt cỏ, trong đó hơn 60 % (≈43 triệu lít) là chất da cam chứa dioxin (TCDD) – chất hóa học cực độc. Có khoảng 3,0–3,1 triệu ha, chiếm 12–20 % diện tích miền Nam Việt Nam, bị phơi nhiễm nặng nề[1].
Kết quả tàn sát môi trường tự nhiên, mức dioxin cao hàng trăm lần ngưỡng an toàn sinh học tại các “điểm nóng” như Đà Nẵng và Biên Hòa, hiện diện trong đất, nước và chuỗi thức ăn con người từ hơn 50 năm nay[2].

Chiến dịch Ranch Hand đã để lại nỗi đau biết bao thế hệ người Việt Nam và cả Hoa Kỳ. Ảnh Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh
Những con số ấy cho thấy sự tàn phá môi trường khủng khiếp, nhưng chỉ phần nào tiết lộ vết thương nhân loại đang âm ỉ qua bao thế hệ.
Chất độc không phân biệt: từ rừng rậm, đồng ruộng đến con người. Hơn 4,8 triệu người Việt được xác định là nạn nhân da cam – với hàng trăm nghìn người mắc các bệnh mạn tính, ung thư, dị tật bẩm sinh và tổn thương thần kinh². Nhưng “con số không thể bật lên thành lời”, cho đến khi nhân chứng thật lên tiếng.

Lãnh đạo Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin tỉnh thăm, tặng quà ông Vũ Đức Thịnh, phường Nam Hoa Lư. Ảnh: Báo Ninh Bình
Tại Tại phường Nam Hoa Lư (Ninh Bình), ông Vũ Đức Thịnh (sinh năm 1947), cựu chiến binh, nhập ngũ năm 1968, thuộc Trung đoàn 209, Sư đoàn 312, Quân đoàn 1, tham gia chiến đấu tại chiến trường Lào và Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (năm 1971) dưng dưng xúc động đón đoàn của Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin tỉnh Ninh Bình đến viếng thăm.
Ông Thịnh là nạn nhân chất độc da cam loại 1, có đến 4 trong số 6 người con bị ảnh hưởng gián tiếp bởi di chứng da cam; bản thân ông hiện đang điều trị tại Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương.
Chiến tranh đã lùi xa cả nửa thế kỷ nhưng ông Thịnh cùng hàng triệu nạn nhân nhiễm chất độc da cam vẫn chưa nguôi nỗi đau.
"Chúng tôi - những nạn nhân chất độc da cam - là những người nghèo nhất trong những người nghèo, đau khổ nhất trong những người đau khổ. Chúng tôi cần sự quan tâm, chia sẻ từ cộng đồng trong nước và quốc tế để xoa dịu nỗi đau, để có thêm niềm tin sống tiếp những ngày còn lại", chị Vương Thị Quyên một nạn nhân và cũng là nhân viên tại Trung tâm Bảo trợ xã hội thuộc Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam phát biểu trên con tàu Hòa Bình.
Chị Vương Thị Quyên sinh ra tại mảnh đất Quảng Bình, bình thường như bao đứa trẻ. Nhưng đến năm 9 tuổi, gia đình phát hiện chị bị u gù, cong vẹo cột sống bẩm sinh. Nguyên nhân là do di chứng chất độc da cam mà cha chị mang trong người từ những năm tháng tham chiến ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, nơi quân đội Mỹ từng rải dioxin xuống đất mẹ Việt Nam.

Vụ kiện của bà Trần Tố Nga ngày càng được dư luận ủng hộ. Ảnh: Collectif Vietnam-Dioxin
Ở Paris, bà Trần Tố Nga – cựu phóng viên chiến trường – người đã chiến đấu hơn 15 năm trong công cuộc viện đơn kiện các công ty như Monsanto và Dow Chemical.
Tuy bị tòa bác với lý do “hành động theo mệnh lệnh chính phủ Mỹ trong thời chiến”, bà vẫn khẳng định: “Tôi không yêu cầu tiền bạc. Tôi chỉ muốn thế giới biết – chúng tôi đã chết dần qua từng con trẻ sinh ra”[4].
“Chúng tôi là những bóng ma của một cuộc chiến chưa từng kết thúc,” ông Lê Văn Định (70 tuổi, Quảng Trị), một nạn nhân thế hệ đầu, thì thầm. Ông từng là thanh niên xung phong tại vùng A Lưới – nơi từng là “điểm đen” rải chất độc. “Con tôi mất lúc chưa đầy một tuổi. Đứa thứ hai sống nhưng không thể tự đứng lên. Bác sĩ nói, máu chúng tôi đã bị đầu độc”.[5]
Lương tri và phẩm giá không thể bị bỏ quên
Những người như ông Thịnh, bà Hồng, hay chị Quyên người sinh ra sau chiến tranh, bà Tố Nga người miệt mài đi tìm công lý vẫn chưa được đền bù một cách xứng đáng để đánh thức lương tri và phẩm giá của những người gây ra “đại họa” và những người chịu ảnh ưởng trực tiếp.

Chị Vương Thị Quyên - một nạn nhân chất độc da cam của Việt Nam, người đại diện cho hàng triệu phận người đang mang trên mình những di chứng nặng nề của chiến tranh. Ảnh: Dantri
Tại Việt Nam, hơn 150.000 trẻ em đã sinh ra với dị tật nặng do di truyền từ cha mẹ phơi nhiễm dioxin[6].
Trong khi các chính phủ bàn bạc, thế hệ mới đã phải trả giá bằng cơ thể của mình.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phương – nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ – từng phát biểu trước Liên Hiệp Quốc: “Dioxin không chỉ phá hủy ADN. Nó xé toạc nhân cách và lòng tự trọng của một dân tộc.” BàPhương và cộng sự ghi nhận hơn 95% ca dị tật nặng tại khoa sơ sinh trong thập niên 1990 có liên quan đến vùng nhiễm chất độc da cam[7].
"Tôi có thể nghe, nói, đi lại được, nhưng nhiều nạn nhân khác thì không. Họ sống trong tăm tối cả về thể xác lẫn tinh thần. Chất độc da cam đã len vào máu thịt, để lại bao thế hệ bị tật nguyền, gánh nặng đè lên vai gia đình và xã hội"
chị Vương Thị Quyên - nạn nhân chất độc Da cam chia sẻ.
Trong khi đó, hàng triệu cựu chiến binh Mỹ bị phơi nhiễm đã được bồi thường hàng tỷ USD nhờ luật Agent Orange Act (1991), với hơn 16 tỷ đô la đã trao cho hơn 1 triệu cựu binh, gồm cả tiền giải quyết nợ lương quay về và chăm sóc hậu phẫu⁶.
Đạo luật Agent Orange Act năm 1991 tại Hoa Kỳ cũng đã công nhận hơn 14 loại bệnh lý liên quan đến dioxin và bồi thường cho hàng trăm ngàn cựu binh, nhưng lại loại trừ hoàn toàn nạn nhân bản địa Việt Nam khỏi mọi hình thức bồi thường – một tiêu chuẩn kép mà nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế gọi là "phân biệt công lý"[8].
Thế nhưng, đối lập với đó, không một nạn nhân Việt Nam nào được đền bù tương xứng. Các vụ kiện nổi bật như VAVA kiện các tập đoàn hóa chất tại Hoa Kỳ (2004) và vụ bà Nga kiện tại Pháp (2021–2024) đã không thành công pháp lý, nhưng đã tạo làn sóng yêu cầu công lý toàn cầu.[9]
Ở Hoa Kỳ, các tổ chức như Vietnam Veterans Against the War và Vietnam Agent Orange Relief & Responsibility Campaign (VAORRC) đã vận động Quốc hội Mỹ thông qua dự luật Victims of Agent Orange Relief Act (H.R. 3518, 2021), hướng đến công nhận và hỗ trợ nạn nhân Việt Nam cũng như quân nhân Mỹ và con cháu của họ.[10]

Hạ nghị sĩ Barbara Lee (Đảng Dân chủ, bang California, Hoa Kỳ) - Ảnh:AP
Hạ nghị sĩ Barbara Lee, một trong những tiếng nói mạnh mẽ tại Quốc hội Hoa Kỳ, từng phát biểu trong một phiên điều trần: “Nếu ta chữa lành cho người lính Mỹ, thì không thể ngoảnh mặt với đứa trẻ Việt Nam đã mất hai chân trước khi biết đi. Đó không phải lòng từ thiện, đó là công lý”. [11]
Cộng đồng quốc tế đã thức tỉnh. Năm 2006, đỉnh điểm là chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống George W. Bush – Hoa Kỳ lần đầu thừa nhận hậu quả môi trường và cam kết hỗ trợ khắc phục. Từ đó đến năm 2021, tổng hỗ trợ dioxin từ Mỹ đã lên đến 381,4 triệu USD, trong đó 75 % dành cho khử độc môi trường và 25 % cho hỗ trợ nạn nhân[12].
Đáng chú ý là sự hợp tác thực tiễn giữa Việt Nam và Mỹ tại sân bay Biên Hòa (Đồng Nai) – nơi từng bị rò rỉ hơn 27.500 lít chất diệt cỏ vào môi trường. Dự án khử độc tại đây khởi động năm 2019, đến 2025 đã được tăng ngân sách lên đến 430 triệu USD nhờ cam kết bổ sung của Mỹ, mở rộng phạm vi công nghệ nhiệt độ cao, và đã hoàn thành quy hoạch xử lý mẫu đất đầu tiên[13].
Dự án tại Biên Hòa không chỉ là chương trình kỹ thuật mà còn là biểu tượng ngoại giao đạo lý. Theo báo cáo từ USAID, việc xử lý 500.000 m³ đất nhiễm độc sử dụng công nghệ làm nóng đến hơn 1.000°C – một quá trình mất hơn 10 năm và tiêu tốn hàng trăm triệu USD, nhưng “không thể đo đếm bằng tiền, mà bằng sự chuộc lỗi".
Tuy nhiên, nguồn tài chính không cân bằng với trách nhiệm. Quỹ hỗ trợ cựu binh Mỹ và các công ty hóa chất như Monsanto đã chi hàng tỷ đô cho giải quyết hậu quả tại Hoa Kỳ, nhưng không công khai bồi thường cho người Việt Nam. Chính sự bất công này làm xói mòn niềm tin và nhân phẩm của những gia đình chịu di chứng dài hạn.
Rốt cuộc, công lý không phải là vết nhơ của quá khứ, mà là ánh sáng dẫn lối tương lai. Các nạn nhân như bà Hồng, cô Hải và bà Nga không cần niềm thương hại – họ cần lời thừa nhận, sự công bằng, và danh dự không thể bị tước đoạt. Nếu thế giới có thể lên án vũ khí hóa học tại Gaza, Syria hay Iraq, thì xin đừng im lặng trước vết sẹo Agent Orange vẫn đang chảy máu trên đất Việt Nam.
Công lý không thể là đặc quyền của người đủ điều kiện. Phẩm giá con người không phải dựa trên quốc tịch mà dựa trên sự đau đớn từng phút, từng ngày của một dân tộc.
Nếu nhân loại có thể lên án vũ khí hóa học tại các vùng xung đột mới, thì không thể im lặng trước thảm họa da cam vẫn tiếp diễn trên đất Việt Nam. Những nạn nhân như ông Định, cô Quyên, bà Nga đang sống giữa cảm giác bị bỏ rơi – không vì họ không xứng đáng, mà vì công lý chưa dám gọi đúng tên mình.
Và nói như cố nhà hoạt động cánh tả, người bạn của những người nạn nhân chất độc Da cam Việt Nam - bà Merle Ratner, trong giai đoạn tới, cộng đồng quốc tế cần tập trung vào ba hướng hành động then chốt để hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. Trước hết, phải tạo sức ép chính trị mạnh mẽ lên Chính phủ Hoa Kỳ – quốc gia chịu trách nhiệm chính về việc sử dụng chiến tranh hóa học – cũng như các chính phủ phương Tây khác, buộc họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với hậu quả chiến tranh, bao gồm hỗ trợ toàn diện cho nạn nhân và làm sạch các điểm nóng dioxin.
Nguồn hỗ trợ này phải được chuyển trực tiếp tới những người bị ảnh hưởng để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả. Song song đó, cần tăng cường tình đoàn kết nhân dân, tận dụng các kênh ngoại giao nhân dân và tổ chức các hoạt động quyên góp quốc tế để huy động nguồn lực xã hội cho nạn nhân.
Một nhiệm vụ quan trọng khác là gây sức ép mạnh mẽ đối với các tập đoàn Dow và Monsanto – hai công ty hóa chất lớn trực tiếp liên quan đến thảm họa da cam nhưng vẫn phủ nhận trách nhiệm và chưa có bất kỳ hành động khắc phục nào, trong khi tiếp tục thu lợi nhuận từ sản phẩm hóa chất độc hại. Theo bà Ratner, đã đến lúc phát động một chiến dịch quốc tế quy mô lớn nhằm buộc các tập đoàn này phải tham gia bồi thường và khắc phục hậu quả, qua đó góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh và trả lại công lý cho các nạn nhân.[14]
Đã tới lúc Mỹ – và cộng đồng quốc tế – cần đứng lên: không chỉ làm sạch đất đai, mà phải chữa lành nhân phẩm.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chỉ đạo Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam. “Một số số liệu về nạn nhân chất độc da cam/điôxin.” Bộ Quốc phòng Việt Nam, 30 tháng 8, 2012.
2. Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam. “Thông điệp về thảm họa da cam ở Việt Nam".
4. Thống tấn xã Việt Nam (TTXVN). “Hành trình 20 năm nỗ lực vì nạn nhân chất độc da cam.” chinhsachcuocsong.vnanet.vn, 2023.
5. VnExpress. “Mỹ bổ sung 130 triệu USD cho dự án xử lý dioxin tại sân bay Biên Hòa.” VnExpress.net, 17 tháng 1, 2025.
6. Nhân Dân Online. “Funding for dioxin remediation at Bien Hoa Airport raised to 430 million USD.” NhanDan Online, ngày 19 tháng 1, 2025.
7. QĐND (Quân đội Nhân dân điện tử). “USAID announced new USD 32 million contract to clean up dioxin in Bien Hoa Airbase.” QĐND Online, 2023.
8. Aspen Institute. “Dioxin Clean-up at American Air Base.”
9. Aspen Institute (Aspen Vietnam Programme) / Agent Orange and U.S. Veterans.
10. Congress.gov. H.R. 556 — Agent Orange Act of 1991. Became Public Law No: 102-4 on February 6, 1991.
11. Time (news). “U.S. Launches Latest Agent Orange Clean-Up at a Vietnamese Air Base.” Time.com, 2019.
12. AP News (news). “The Vietnam War ended 50 years ago, but the battle with Agent Orange continues.” AP News, tháng 5, 2025
13. “USAID cuts jeopardize Agent Orange cleanup and other efforts critical to ties with Vietnam.” AP News, tháng 3, 2025.
14. Bà Merle Ratner: Tôi sẽ luôn bên các nạn nhân da cam. https://vufo.org.vn/Ba-Merle-Ratner-Toi-se-luon-ben-cac-nan-nhan-da-cam-52-8598.html?lang=vn
Lại Duy Cường